captured from: www.nguoivienxu.vietnamnet.vn

 
BÀ EMI LYNN YAMAUCHI – CỰU TỔNG LÃNH SỰ QUÁN HOA KỲ TẠI TP.HCM
“Chúng ta chỉ có thể tiến về tương lai...”
www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/trenduongphattrien/2004/09/256742/ 
06:57' 08/09/2004 (GMT+7)

Bà Emi Lynn Yamauchi

"Chúng ta không thể thay đổi lịch sử, chúng ta chỉ có thể tiến về tương lai" - đó là lời của bà Emi Lynn Yamauchi, cựu Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh khi nói về những nỗ lực của hai quốc gia Việt Nam và Mỹ - nhằm xây dựng một mối quan hệ tiến bộ, ổn định và giảm bớt đi những mất mát và hi sinh mà nhiều gia đình đã trải qua. Sau đây là bài phỏng vấn của phóng viên Người Viễn Xứ với bà Emi Lynn Yamauchi - người vừa chấm dứt nhiệm kỳ công tác 3 năm (2002 - 2004) tại thành phố Hồ Chí Minh.


Xin bà cho biết cảm nghĩ của bà trước khi đến công tác tại Việt Nam, và hiện tại, sau một thời gian sống và làm việc tại đây trong nhiệm kỳ của mình?

* Tôi đã mong muốn đến thành phố Hồ Chí Minh với một lòng nhiệt huyết và tư tưởng cởi mở. Vì vậy mặc dù tôi đã đọc trong nhiều tài liệu và sách về lịch sử Việt Nam và cả về cuộc chiến ở Việt Nam, nhưng tôi vẫn muốn đến đây, gặp gỡ người dân ở đây và nghe họ nói. Sau nhiệm kỳ công tác khoảng 3 năm tại Việt Nam, tôi đã rời khỏi đất nước này với nhiều kỷ niệm đẹp. Từ những người chủ các cửa hàng, những người phục vụ trong nhà hàng đến đại lý bán vé máy bay và những nhân viên phục vụ trên máy bay, Sở Ngoại vụ và các quan chức thuộc Ủy ban nhân dân thành phố. Tôi có ấn tượng tốt bởi lòng nhiệt tình và sự hăng hái của họ. Theo tôi, thành phố Hồ Chí Minh là nơi mọi người làm việc tích cực và chơi cũng tích cực. Tổng lãnh sự tự hào khi đặt văn phòng thường trú tại đây.

Trong quá trình công tác và làm việc tại Việt Nam, chuyên phụ trách các vấn đề về ngoại giao giữa hai nước, giải quyết các vấn đề về xuất nhập cảnh cho người dân hai nước… những điểm nào bà hài lòng và đâu là những điểm bà chưa được hài lòng. Bà sẽ nói với nhân dân Mỹ điều gì, khi họ hỏi bà về Việt Nam?

* Có nhiều việc khiến tôi cảm thấy rất hài lòng và thoải mái trong suốt nhiệm kỳ công tác của mình. Tổng lãnh sự quán đã có thể đồng tài trợ cho các chương trình ca nhạc trực tiếp và những lớp hướng dẫn kỹ năng cho sinh viên của nhạc viện ở thành phố Hồ Chí Minh, Huế, và Đã Nẵng. Chúng tôi cũng đã có thể bảo trợ cho những hội thảo về chủ đề Hoa Kỳ Học đương đại. Tổng lãnh sự quán đánh giá cao mối quan hệ hợp tác và nhiệt tình với sở Ngoại Vụ, Ủy ban nhân dân thành phố và các cơ quan tại các tỉnh thành cũng như với phòng thương mại Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi cũng tham gia vào các chương trình của hai thành phố kết nghĩa Francisco Sister và thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời chứng kiến sự ra đời của Hội hữu nghị Việt - Mỹ, dưới sự bảo trợ của Hội Liên hiệp Hữu nghị. Và tất nhiên, chuyến viếng thăm của con tàu quân sự Hoa Kỳ USS Vandegrift, con tàu hải quân đầu tiên của Mỹ viếng thăm Việt Nam trong vòng 30 năm là một sự kiện tiêu biểu của việc phát triển quan hệ song phương.

Là một nhà ngoại giao, đôi khi thật khó diễn tả điều gọi là “không hài lòng”, bởi vì chúng tôi xem xét và đánh giá hầu hết các vấn đề theo xu hướng tích cực. Chúng tôi phải tin rằng mọi vấn đề sẽ được giải quyết và chúng tôi sẽ tiến dần từng bước - dù là những bước nhỏ - về phía trước. Tôi cho rằng Việt Nam cần thảo luận với Mỹ về những vấn đề nhạy cảm như nhân quyền và tự do tôn giáo. Việt Nam không nên quan niệm rằng chúng tôi chỉ là những doanh nhân, những nhà đầu tư, những nhà ngoại giao hay những du khách. Bởi vì những giá trị đó thể hiện một phần tính cách người Mỹ chúng tôi và nước Mỹ được xây dựng dựa trên những nguyên tắc đó.

Bà Emi trong buổi lễ kỉ niệm ngày Độc lập Hoa Kỳ tại Liên hiệp các tổ chức hữu nghị TP.HCM (04.07.2004)

Khi những người Mỹ hỏi tôi về Việt Nam, tôi sẽ kể với họ rằng, Việt Nam là một đất nước đang tiến dần tới một bước ngoặt. Tương lai nó sẽ là một nơi rất sôi động bởi vì những thay đổi và chuyển động đang diễn ra mỗi ngày ở đó. Mối quan hệ song phương của chúng ta cũng còn non trẻ và chúng ta còn nhiều vấn đề và công việc phải làm phía trước. Thông qua hoạt động lãnh sự của chúng tôi, tổng lãnh sự quán nỗ lực cố gắng xây dựng một mối quan hệ ổn định, cân bằng và toàn diện trong các vấn đề về thương mại, trao đổi giáo dục, biểu diễn văn hóa, trợ giúp nhân đạo và tất nhiên là cả đối thoại mạnh mẽ về nhân quyền và tự do tôn giáo.

Có một số người Mỹ vẫn mang những ký ức cay đắng về thời chiến, và một số người có những nghi ngờ về mối quan hệ song phương còn non trẻ giữa hai quốc gia. Với họ tôi sẽ nói rằng nỗ lực của chúng tôi nhằm xây dựng một mối quan hệ tiến bộ, ổn định sẽ không nhằm làm giảm bớt đi những mất mát và hi sinh mà nhiều gia đình đã trải qua. Chúng ta không thể thay đổi lịch sử, chúng ta chỉ có thể tiến về tương lai.

Theo cơ quan di trú và công dân Mỹ (CIS), đến cuối năm 2006, những người nhập cư muốn trở thành công dân Mỹ phải trải qua những bài kiểm tra gắt gao hơn về Anh ngữ, lịch sử và quyền lợi công dân Mỹ. Điều này có nghĩa những ai không qua được các kỳ thi kiểm tra đó thì vĩnh viễn không thể trở thành công dân Mỹ, thông tin như vậy có đúng không, thưa bà? Hiện nay, số người Việt Nam nhập cư vào Mỹ khá đông, vậy tương lai họ thế nào, nếu không qua được các kỳ thi của CIS?

* Tôi kể cho các bạn nghe một kinh nghiệm riêng về bà tôi. Bà tôi từ Nhật đến Mỹ vào khoảng năm 1910, thời gian mà những người nhập cư gốc Nhật không được phép trở thành công dân Mỹ. Nhiều năm sau thế chiến thứ II, điều luật này có thay đổi, và bà tôi quyết định dự kỳ thi kiểm tra để trở thành công dân Mỹ, tuy nhiên lúc đó bà cũng rất bồn chồn và lo lắng. Bà đã học rất chăm chỉ và chuẩn bị rất kỹ cho kỳ thi nhập quốc tịch đó. Tôi còn nhớ lúc đó mẹ tôi đã giúp bà học về tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp và về những ngày trọng đại trong lịch sử Mỹ. Lúc đó tôi còn bé, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng kỳ thi đó ắt hẳn rất quan trọng vì “hai người già” vẫn phải thức học cùng với nhau mỗi tối.

Được biết bà là một phụ nữ gốc Nhật giữ vị trí cao trong Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, điều mà không nhiều phụ nữ gốc châu Á đạt được, bà nghĩ sao về vấn đề này?

* Tôi cho là mình rất may mắn khi được sống ở một đất nước đã đem đến nhiều điều kiện và khuyến khích, tạo nên những cơ hội thăng tiến ngang bằng nhau. Mọi công dân Mỹ phải có trách nhiệm duy trì và phát huy nguyên tắc này. Khi các viên chức mới đến làm việc và đi khỏi tổng lãnh sự quán thành phố Hồ Chí Minh, các bạn sẽ thấy người Mỹ với nhiều đặc trưng khác nhau, từ chủng tộc, dân tộc và tôn giáo khác nhau. Tôi và những nhân viên tổng lãnh sự quán khác hiểu rằng chúng tôi là đại diện của nước Mỹ tại TP.HCM.

Chân thành cảm ơn.

THÙY MAI thực hiện 

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi

 
Trở về đầu trang


VIETTRADE Ở NEW YORK TỔ CHỨC:
Giao lưu giữa doanh nghiệp trẻ Việt Nam & doanh nghiệp Mỹ
www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/trenduongphattrien/2004/08/229312/ 
09:34' 22/08/2004 (GMT+7)

Chiều 20.08, tại Trung tâm xúc tiến thương mại Việt Nam (VIETTRADE) ở thành phố New York (Mỹ) đã diễn ra cuộc giao lưu giữa phái đoàn các nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam do tiến sĩ Phương Hữu Việt, Phó chủ tịch Hội các nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam, dẫn đầu với đại diện các doanh nghiệp Mỹ và Việt Nam đang hoạt động kinh doanh tại New York.

Một góc Manhattan - New York

Đến dự buổi giao lưu có bà Elizabeth - đại diện Trung tâm thương mại quốc tế thuộc Văn phòng thị trưởng New York và Đại diện của Trung tâm thương mại Manhattan (New York). Các doanh nghiệp trẻ Việt Nam đã giới thiệu với các doanh nghiệp Mỹ và đại diện thương mại Mỹ tại New York tiềm năng to lớn của các doanh nghiệp trẻ Việt Nam trong xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, đặc biệt là nông sản, đồ gỗ, phần mềm, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Các doanh nghiệp trẻ Việt Nam đều nhấn mạnh mong muốn mở rộng các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam tại Mỹ, đồng thời cũng nêu lên những khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam trong bước đầu hoạt động xuất khẩu và kinh doanh tại thị trường Mỹ.

Bà Elizabeth đã nêu rõ những khó khăn và thuận lợi đối với doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại thị trường Mỹ và nhấn mạnh thành phố New York sẵn sàng giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh tại New York về tư vấn luật pháp, thuê trụ sở kinh doanh, giới thiệu các đầu mối tiếp xúc để các doanh nghiệp hoàn tất các thủ tục kinh doanh tại Mỹ. Bà nhấn mạnh các yếu tố luật pháp là những nhân tố quan trọng để một doanh nghiệp nước ngoài làm ăn thành công tại thị trường Mỹ.

Nhân dịp này, các đại diện của các doanh nghiệp Mỹ và các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn tại Mỹ đã giới thiệu những kinh nghiệm làm ăn tại thị trường Hoa Kỳ hiện nay. Giám đốc VIETTRADE Lê Xuân Dương và bà Elizabeth đã trả lời những thắc mắc của các doanh nghiệp Việt Nam về các thủ tục mở văn phòng đại diện, tổ chức đầu tư và làm ăn tại Hoa Kỳ.

(TTXVN)

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi

 
Trở về đầu trang


CỬA VÀO TƯƠNG LAI

QUỸ GIÁO DỤC DÀNH CHO VIỆT NAM – VEF
Lắng nghe, cởi mở và sẵn sàng hợp tác
www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/cuavaotuonglai/2004/07/219482/ 
09:53' 26/07/2004 (GMT+7)

Giáo sư Tiến sĩ Võ Văn Tới

Tính đến nay, Quỹ Giáo dục dành cho Việt Nam (gọi tắt là VEF) do Chính phủ Mỹ ủng hộ, đã cấp trên 100 suất học bổng cho nghiên cứu sinh thạc sĩ và tiến sĩ Việt Nam. VEF hoạt động trên nguyên tắc nào, mục đích và hướng hoạt động trong thời gian tới của VEF ra sao? Người Viễn Xứ đã có cuộc trao đổi với Giáo sư - Tiến sĩ Võ Văn Tới, hiện đang giảng dạy tại khoa Y và khoa Kỹ thuật Y sinh thuộc trường Đại học Tufts (Mỹ), là thành viên Ban Hội đồng Quản trị VEF.

  • PV: Thưa Giáo sư, xin ông cho biết vì sao lại có Quỹ Giáo dục dành cho Việt Nam. Cơ cấu tổ chức của Quỹ ra sao?

Giáo sư - Tiến sĩ Võ Văn Tới: Trước năm 1975, Chính phủ Hoa Kỳ có viện trợ và đồng thời cho chính phủ miền Nam Việt Nam vay một khoản tiền. Khi đất nước Việt Nam thống nhất, Chính phủ Hoa Kỳ ngỏ ý muốn lấy lại số tiền này và được sự đồng ý từ phía Chính phủ Việt Nam. Số tiền này đã được trích ra để thành lập một quỹ giáo dục, đào tạo sinh viên Việt Nam. Ngay từ thời tổng thống Bill Clinton đã ký Nghị định thành lập quỹ này. Và vào cuối năm 2002, Quốc hội Mỹ đã chính thức thông qua đạo luật “Quỹ Giáo dục dành cho Việt Nam - 2000”. Chính Tổng thống Bush đã bổ nhiệm các thành viên vào Hội đồng Quản trị (HĐQT) của VEF, gồm 13 thành viên, trong đó có 6 thành viên là các nhà khoa học, còn lại là đại diện của Thượng, Hạ viện Hoa Kỳ, đại diện Bộ Ngoại giao, Bộ Giáo dục Đào tạo Mỹ. Trong số 6 nhà khoa học của HĐQT do Tổng thống Bush bổ nhiệm, cứ mỗi năm lại thay hai người, và tháng 04.2004 vừa qua có hai người đã mãn nhiệm là Tiến sĩ Chung Kim và ông Joseph Tuấn Phạm. Đồng thời, Tổng thống Bush đã bổ nhiệm tôi và Tiến sĩ Charles Cường Nguyễn làm thành viên của HĐQT. Các thành viên của HĐQT có nhiệm kỳ là 3 năm và làm việc vô lợi nhuận (không ăn lương). Công việc của HĐQT là tìm hiểu và xác định những hoạt động của VEF, làm sao để có thể phản ánh được tinh thần của Nghị định thành lập VEF, làm sao để việc hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học giữa hai nước đạt kết quả tốt. Mỗi thành viên trong HĐQT hoạt động riêng rẽ nhưng cùng hướng tới mục đích chung đó để cùng họp bàn và đưa ra đường hướng hoạt động của VEF, sau đó Giám đốc điều hành sẽ thực hiện những điều mà HĐQT đã đưa ra, vì bên cạnh HĐQT còn có Giám đốc điều hành (có hưởng lương). Hiện nay đảm nhiệm chức vụ này là ông Phạm Đức Trung Kiên, ông Kiên cũng là Giám đốc điều hành đầu tiên của VEF; là người chịu trách nhiệm trực tiếp làm việc với phía Việt Nam. Bên cạnh đó, VEF còn có sự hỗ trợ của Viện Hàn lâm Mỹ trong việc giới thiệu, tuyển chọn và quản lý nhóm các giáo sư tham gia vào quá trình phỏng vấn du học sinh.

  • Thưa ông, mục đích hoạt động của VEF là gì? Kể từ khi Chính phủ hai nước ký kết biên bản nguyên tắc hợp tác(10.2003) VEF đã hoạt động ra sao?

GSTS Võ Văn Tới: VEF có 3 mục đích chính: thứ nhất là góp phần giúp Việt Nam đào tạo một số cán bộ khoa học, kỹ thuật có trình độ cao tại các trường đại học và Viện nghiên cứu nổi tiếng của Mỹ. Thứ hai là tài trợ cho một số giáo sư, nhà khoa học có uy tín và trình độ cao của Mỹ sang phối hợp cùng đồng nghiệp Việt Nam giảng dạy, nghiên cứu và triển khai một số hoạt động khoa học tại một số trường đại học, viện nghiên cứu của Việt Nam. Thứ ba là tăng cường năng lực và hỗ trợ một số trường đại học và viện nghiên cứu của Việt Nam.

Những sinh viên VN được nhận học bổng của VEF cùng các giáo sư dạy tiếng Anh của họ trong một chuyến tham quan dã ngoại tại Vịnh Hạ Long

Quỹ VEF sẽ được thực hiện trong vòng 10 năm, từ nay đến năm 2016, mỗi năm VEF sẽ dành khoảng 5 triệu USD cho việc cấp học bổng. Từ đầu năm 2004 đến nay, chúng tôi đã tổ chức tuyển chọn và đưa sang du học tại các trường đại học danh tiếng của Mỹ trên 80 sinh viên Việt Nam. Đầu tháng 8 này, ông Phạm Đức Trung Kiên sẽ tiếp tục tổ chức phỏng vấn những sinh viên mới sẽ nhập học vào tháng 09.2005. Nhóm các giáo sư sẽ lọc lựa từ 1.500 đơn xin học bổng để chọn ra 400 em. Tiếp đó, qua một kỳ thi sẽ tuyển chọn lại còn 150 em và đợt phỏng vấn cuối cùng sẽ do các giáo sư Mỹ và Việt Nam thực hiện để chọn khoảng 50 em sang du học tại Mỹ. Như vậy, tính riêng  năm 2004 có khoảng 130 sinh viên sẽ được học tại các trường đại học và viện nghiên cứu nổi tiếng của Mỹ với sự giới thiệu của các giáo sư có uy tín. Nếu tính chung từ khi hoạt động đến nay, VEF đã tổ chức được cho trên 150 sinh viên du học bằng học bổng của Quỹ. Đồng thời VEF cũng đã tổ chức được 2 đợt mời các giáo sư Mỹ sang thuyết trình về chuyên môn tại Viện Hàn lâm Khoa học Kỹ thuật Việt Nam. Bên cạnh đó, VEF còn nghiên cứu một số đề án khác, trước hết là đề án xây dựng một trường đại học tư tại Việt nam, hiện ông Phạm Đức Trung Kiên đang đi tham quan tìm kiếm địa điểm đáp ứng đủ điều kiện để thành lập trường.

  • Như vậy, để tìm kiếm một học bổng của VEF quả là điều không dễ dàng chút nào phải không, thưa ông?

GSTS Võ Văn Tới: Ồ không, Quỹ VEF rất cởi mở, mang tính cộng đồng cao. Bất cứ ai vào website của VEF (www.vef.gov) cũng đều có thể xem và in thông tin cũng như đơn xin cấp học bổng của VEF. Sau đó chúng tôi sẽ tổ chức một đợt lọc lựa ban đầu, và như trên đã nói, sẽ có một kỳ thi do Hội đồng thi của Mỹ tổ chức ra đề, chấm thi. Tiếp đó là đợt phỏng vấn, cứ 3 giáo sư (trong đó có một giáo sư Việt Nam) thì phỏng vấn một em. Những sinh viên nào có khả năng sẽ được thông báo trúng tuyển và được chính các giáo sư viết thư giới thiệu vào các trường đại học, các viện nghiên cứu danh tiếng của Mỹ. Học bổng cho nghiên cứu sinh cũng được cấp trên nguyên tắc chi trả học phí, tiền sách vở, cũng như tiền sinh hoạt phí cho các em. Đôi khi có trường còn miễn học phí cho sinh viên và VEF không phải trả số tiền đó.

Chúng tôi cũng nhận thấy rằng, Việt Nam là một đất nước có nhiều nhân tài, có nhiều điều kiện để có thể hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo có lợi cho cả hai nước. Chính vì thế, hoạt động của VEF sẽ mở rộng thêm. VEF luôn mong muốn được lắng nghe những nhu cầu, điều kiện của Việt Nam để có thể đáp ứng, giúp đỡ và hợp tác hiệu quả nhất.

  • Xin cảm ơn ông. Hy vọng VEF sẽ hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, để việc hợp tác giáo dục giữa hai nước đạt được những kết quả khả quan.
     

TỐ NHI thực hiện 

Gửi tin này qua email In thông tin Gửi phản hồi

 
Trở về đầu trang


TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN

CÔNG TY TNHH LA MÃ:
Xuất khẩu tượng đá mỹ nghệ sang Hoa Kỳ
http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/trenduongphattrien/2004/07/176793/ 
14:43' 16/07/2004 (GMT+7)

Tượng vĩ nhân

Ở Việt Nam, tượng mỹ nghệ được sản xuất bằng nhựa cao cấp được bán đại trà trên thị trường. Riêng đối với Công ty TNHH La Mã (tên giao dịch bằng tiếng Anh: ROMA Co.,Ltd) sản phẩm tượng mỹ nghệ của công ty được sản xuất từ nguồn nguyên liệu bột đá nhập ngoại qua công nghệ Ý rất được khách hàng Hoa Kỳ ưa chuộng.

Chỉ có cơ hội duy nhất

Hiện nay, trong khi nhiều doanh nghiệp Việt Nam rất ngại khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ, làm thế nào mà sản phẩm của Công ty La Mã có thể xuất khẩu sang Hoa Kỳ, một thị trường nổi tiếng khó tính?

Trả lời cho câu hỏi trên, anh Đỗ Duy - Giám đốc trẻ tuổi của Công ty cho biết: anh tốt nghiệp Đại học Kinh tế ở Hoa Kỳ, Khoa Quản trị kinh doanh. Sau một thời gian làm việc trong một công ty Hoa Kỳ chuyên thu mua sản phẩm đá mỹ nghệ từ Ý, anh ngày càng yêu thích công việc của mình. Sẵn có niềm đam mê mỹ thuật từ nhỏ và biết cảm nhận cái đẹp nên anh quyết tâm học thêm trong lĩnh vực kiến trúc, hội họa, từ đó cũng hình thành nên ý tưởng sẽ thành lập công ty riêng khi có điều kiện.

Cách đây 2 năm, lần đầu tiên về thăm quê hương kể từ khi anh sang Mỹ lúc còn bé xíu, anh ngạc nhiên khi thấy đất nước, quê hương mình đẹp quá, khác hẳn những gì còn lưu lại trong ký ức xa xưa. Cái duyên để anh từ Mỹ về Việt Nam đầu tư cũng bắt đầu từ lần về thăm nhà đầu tiên đó. Nhất là qua bạn bè người thân, biết được Nhà nước ưu đãi, tạo điều kiện cho Việt kiều về nước đầu tư, kinh doanh mọi mặt, anh quyết định thử đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu tượng mỹ nghệ từ bột đá ở Việt Nam.

Tượng vũ nữ

Công ty mới được thành lập từ tháng 09.2002, trụ sở đặt tại Mỹ Yên - Bến Lức - Long An. Với nguồn vốn cố định ban đầu là 6 tỷ đồng Việt Nam dùng để đầu tư nhà xưởng, máy móc, hệ thống làm khuôn, nguyên liệu nhập khẩu cùng với những mẫu gốc đưa từ Hoa Kỳ về Việt Nam. Trong suốt thời gian 6 tháng, công ty phải chấp nhận lỗ 100 nghìn USD.

Giải thích điều này, anh Đỗ Duy nói: “Người Mỹ không cho doanh nghiệp có cơ hội lần 2 khi xuất khẩu hàng sang Hoa Kỳ. Vì vậy, để lô hàng xuất khẩu đầu tiên của Công ty được chấp nhận ở thị trường khó tính này, anh đã trực tiếp huấn luyện, đào tạo công nhân và kỹ thuật viên của mình trong suốt 6 tháng trời từ khâu tạo mẫu, làm khuôn cho đến ép tượng từ bột đá để cho ra thành phẩm, cho đến khâu kiểm tra cuối cùng và đóng gói. Để có kết quả ưng ý và được khách hàng “chọn mặt gửi vàng” không chỉ một lần và cho cả quá trình lâu dài về sau nên đôi lúc phải chấp nhận “hy sinh”.

Với hơn 100 công nhân lành nghề và kỹ thuật viên có kinh nghiệm, sản phẩm tượng mỹ nghệ làm từ bột đá nhập ngoại của Công ty La Mã khá sắc sảo, độ mịn và độ nét đạt ở trình độ cao có thể nói không kém so với tượng điêu khắc từ đá thiên nhiên và khác biệt quá xa so với các loại tượng mỹ nghệ được làm từ sản phẩm nhựa cao cấp.

Chị và em

Hai dòng sản phẩm của Công ty La Mã được khách hàng Hoa Kỳ ưa thích và chấp nhận, đó là những bức tượng thiên về “Đạo” như: Đức Mẹ Maria, Đức chúa Giêsu, Love - Psyole, Three Graces, Last Suppee… và những bức tượng thiên về “Đời” như: Roman Lover, Pretty Woman, Bust of Lippy… được sản xuất theo những bức tranh của các danh họa nổi tiếng thế giới từ nhiều thế kỷ qua như: Leonard de Vinci, Michean Gelo… Sự khắt khe trong sản xuất để sao cho sản phẩm của Công ty đạt tiêu chuẩn bản sao theo mẫu từ những bức tượng đá nổi tiếng ở Roma thời Phục hưng cũng như thời hiện đại là điều kiện hàng đầu đặt ra cho tập thể của Công ty.

Mỗi một bức tượng thành phẩm không chỉ đơn thuần là tượng đá, mà chính là “tâm huyết” của người thợ được bàn tay khéo léo của đội ngũ công nhân và kỹ thuật viên của Công ty “thổi hồn” vào đó làm cho tượng sống động như người thật và thật sự có hồn. Chính vì vậy, mỗi sản phẩm tượng đá mỹ nghệ của công ty trở nên hấp dẫn lạ lùng. Điều đó được thể hiện qua từng nếp áo, khóe môi cười nụ bí ẩn của thiếu nữ đã thu hút được cả khách hàng khó tính nhất.

Đức Mẹ Maria

Cụ thể như: bức tượng có tên Pieta cao 2,4 mét được mô phỏng theo bức tượng nguyên mẫu của nhà điêu khắc nổi tiếng thế giới Michean Gelo ở thế kỷ XVIII. Về Đạo, đó là sự diễn tả không lời hình ảnh đau lòng của Đức Mẹ Maria trước thi thể của Đức Chúa Giêsu được đưa xuống sau khi bị đóng đinh trên Thập giá. Về Đời, đó còn là tình yêu vô bờ của người mẹ dành cho đứa con yêu dấu của mình trước nỗi đau về thể xác mà người mẹ không thể nào sẻ chia hay gánh vác thay con.

Thành công nối tiếp thành công

Mặc dù hiện tại, “đầu ra” của Công ty chủ yếu là thị trường Hoa Kỳ qua kênh phân phối đại lý, nhưng đó là thành công bước đầu đáng được ghi nhận của một doanh nhân Việt kiều trẻ tuổi dám nghĩ, dám làm khi mạnh dạn đầu tư ở Việt Nam. Tuy nhiên, không chấp nhận sự thành công vẫn còn ở mức “khiêm tốn”, Công ty La Mã còn có dự định sẽ xuất khẩu sang châu Âu trong thời gian tới sau khi đã đủ “lực” để cung ứng theo yêu cầu của khách hàng và sau khi nhà xưởng mới có diện tích sử dụng 2.600m2 đã được xây dựng xong. Theo dự kiến, công ty sẽ phát triển thêm hơn 150 công nhân, nâng tổng số công nhân có tay nghề cao của công ty lên 350 người. 

Vì sao Giám đốc chọn Long An để xây dựng nhà xưởng của công ty, trong khi hầu hết các doanh nghiệp đều chọn TP.HCM là nơi lý tưởng để đầu tư?

Anh Đỗ Duy bộc bạch: lúc đầu mình cứ ngỡ đầu tư ở TP.HCM sẽ gặp nhiều khó khăn nên không dám, vì vậy đã chọn địa điểm đầu tư ở tỉnh Long An. Một mặt, ở đây đất rộng giá thuê mặt bằng cũng như sang nhượng đất tương đối rẻ, nguồn nhân lực dồi dào và công nhân cần cù chịu khó, một trong những yêu cầu để sản xuất mặt hàng đặc biệt này. Mặt khác, chính quyền địa phương tạo nhiều thuận lợi cho công ty khi đầu tư nhà xưởng và làm ăn ở Long An. Tuy nhiên, để phát triển công ty và mở rộng thị trường, trong tương lai gần công ty sẽ có ít nhất một văn phòng đại diện và một Showroom tại TP.HCM để thuận tiện giao dịch với nhiều đối tác trong nước và nước ngoài.

Bài:  NGUYỆT QUẾ

Ảnh: ĐỨC HUY  

 

 

Khác hẳn với việc sản xuất tượng mỹ nghệ bằng bột đá, có một điều thú vị mà hiện nay có rất ít người biết đến, Công ty La Mã còn sáng tạo và cho ra đời thêm một loại sản phẩm đặc biệt “có một không hai”, đó là Hoa đường. Đường cát là nguyên liệu chính để sản xuất Hoa đường. Hoa đường dùng để trang trí cho các loại bánh sinh nhật, bánh cưới, hoa cài áo, bó hoa cầm tay cho cô dâu trong ngày cưới... mà người ta vừa dùng để trang trí thay cho hoa thật, vừa có thể ăn được.

Hàng trăm sắc hoa các loại được công nhân kỹ thuật của công ty cần mẫn, tỉ mỉ  thao tác theo 60 mẫu chuẩn bị cho đơn hàng đầu tiên đã ký hợp đồng xuất khẩu sang Hoa Kỳ vào cuối tháng Tám năm nay. Được biết, đây cũng là sản phẩm độc đáo đầu tiên của Việt Nam sẽ xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi

 
Trở về đầu trang


NGƯỜI VIỆT BỐN PHƯƠNG
GIÁO SƯ - TIẾN SĨ TỪ TRUNG CHẤN:
Ai cũng mong phục vụ cho chính quê hương mình
11:23' 18/05/2004 (GMT+7)
 www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/nguoivietbonphuong/2004/05/135600/ 

Giáo sư - tiến sĩ Từ Trung Chấn

Là một tiến sĩ hàng đầu ở Mỹ và cũng là một doanh nghiệp thành công ở cả Mỹ và Trung Quốc về công nghệ bán dẫn phát sáng, Giáo sư tiến sĩ Từ Trung Chấn đã mang cả công nghệ này về Việt Nam... Một nhà máy sản xuất linh kiện bán dẫn và chíp phát sáng với tổng vốn đầu tư 9,5 triệu USD đang được xây dựng tại Việt Nam.

Sẽ đi tắt đón đầu

Công nghệ mà GS-TS đem về Việt Nam đang là một trong những công nghệ hàng đầu trên thế giới. Đó là việc sản xuất linh kiện bán dẫn và chíp phát sáng được ứng dụng rộng rãi và rất hiệu quả trong viễn thông, chiếu sáng, y học và quân sự. Ông Chấn giải thích:"Muốn chế tạo ra linh kiện bán dẫn phải dùng đến Wafer, đây là nguyên liệu được làm ra từ cát tinh khiết để chế vi mạch; hoặc dùng Gallium Arsenide (GaAs), Gallium Nitride (GaN) pha tạp với Indium Phosphite (InP) và phải được chế tạo trong "phòng sạch". Sau đó, những linh kiện bán dẫn này (đèn LDE-Light Emitting Diode) sẽ được chế tạo đèn giao thông, đèn hiển thị (chuyển giao thông tin tạm thời), bảng quảng cáo...Và tuỳ theo cấu trúc vật lý, các linh kiện phát sáng này (chíp phát sáng- nhỏ như hạt bụi) sẽ được sử dụng trong công nghệ viễn thông bằng cáp quang, trong máy in laser, đầu đọc DVD, CVD, các thiết bị điện như máy fax, máy điện thoại, máy vi tính, tivi. Đặc biệt, các con chíp phát sáng ứng dụng rất hiệu quả trong y học như tìm ra đột biến của DNA, truy tầm và chữa trị ung thư, lọc và giết các tế bào máu ung thư.

Công nghệ hàng đầu trên thế giới này đem lại lợi nhuận rất lớn. Việc sản xuất ra một con chip có giá thành rất rẻ, "một vốn, chín lời", do vậy  công nghệ bán dẫn đã đem lại siêu lợi nhuận cho các quốc gia lớn trên thế giới như: Mỹ, Hàn Quốc, Nhật, Đài Loan, Trung Quốc... Nếu sản xuất thành công công nghệ này ở Việt Nam, chúng ta sẽ cung cấp trực tiếp cho thị trường thế giới, đây là cách đi tắt đón đầu - một cuộc bứt phá ngoạn mục cho nền khoa học và kinh tế nước nhà.

 Tiến sĩ Từ Trung Chấn đang tiến hành thủ tục để đưa Nhà máy sản xuất linh kiện bán dẫn Semco Laser Technology đang hoạt động tại thành phố Trung Sơn, Quảng Châu, Trung Quốc về Việt Nam. Trước mắt, tiến sĩ Từ Trung Chấn đang đưa nội dung công nghệ bán dẫn vào chương trình giảng dạy tại trường Đại học Bách khoa TP.HCM nhằm đào tạo "cán bộ" khi nhà máy chính thức hoạt động tại Việt Nam

  • Một chuyên gia hàng đầu tại Mỹ

GS-TS Từ Trung Chấn trong phòng nghiên cứu tại Mỹ

Định cư ở Mỹ vào năm 1981, Từ Trung Chấn vào Đại học khi đã 26 tuổi. Lúc mới sang, kinh tế gặp nhiều khó khăn, khi ghi danh vào trường đại học ở Mỹ, anh không ngần ngại hỏi thẳng các giáo sư: "Ngành học nào ở Mỹ sau khi tốt nghiệp dễ có việc làm và kiếm được nhiều tiền?" Các giáo sư bảo với anh đó là ngành quang điện nhưng để học được không phải dễ dàng. Anh đồng ý theo học và cảm thấy rất say mê.

Tuy nhiên những ngày đầu theo học thật khó khăn vì đây là một ngành học rất mới đối với sinh viên Việt Nam. Dù học tiếng Anh khá giỏi nhưng khi anh trình bày đề tài với một nữ giáo sư, sau một hồi trao đổi, cô giáo phải đi mời phiên dịch mới hiểu hết ý anh trình bày. Bởi vì ngôn ngữ diễn đạt chính xác cho những từ trong chuyên ngành là cực kỳ khó. Có khi anh phải tìm trong những từ điển hàng ngàn trang nhưng không có từ giải thích chính xác vì vậy phải vừa học vừa tìm kiếm cách diễn đạt cho chuẩn. Rất may mắn khi anh được giáo sư Harold Manasevit, nhà khoa học phát minh ra linh kiện bán dẫn hướng dẫn học tập. Từ sự giới thiệu của giáo sư Harold Manasevit, anh được làm việc cho một Viện nghiên cứu hàng đầu của Mỹ về công nghệ này. Nhóm của anh đã nghiên cứu hơn 100 đề tài về vật liệu bán dẫn. Trong đó bản thân Từ Trung Chấn có một đề tài rút ngắn công đoạn sản xuất tấm nền (wafer) - là vật liệu thô để chế tạo chíp. Những đề tài này giúp anh bảo vệ thành công Luận án tiến sĩ vật lý lượng tử (một phân ngành vật lý nguyên tử) vào năm 1991. Tiến sĩ Từ Trung Chấn trở thành thành viên của Hội đồng khoa học của Viện nghiên cứu.

Sau đó, tiến sĩ Chấn tham gia dạy học tại trường Đại học Pasadena (Cali). Năm 1996, anh quyết biến ý tưởng của mình thành hiện thực và mở nhà máy Semco Laser Technology chuyên sản xuất linh kiện bán dẫn tại Trung Quốc với số vốn 5 triệu USD. Nhà máy chỉ làm công đoạn cắt và đóng gói phần nền, có khả năng sản xuất 240.000 con chíp mỗi ngày.

"Thế tại sao anh lại quyết định dời nhà máy về Việt Nam?" - tôi hỏi. Tiến sĩ Từ Trung Chấn giải thích: "Thời điểm tôi xây dựng nhà máy ở Trung Quốc thì điều kiện ở Việt Nam chưa chín mùi. Tuy nhiên làm việc ở Trung Quốc tôi phải sử dụng tiếng Anh rất bất tiện. Còn bây giờ Việt Nam đang trong quá trình hội nhập đã có nhiều chính sách thu hút đầu tư, nhân công rẻ nên việc thành lập nhà máy ở Việt Nam là hợp lý. Và dĩ nhiên còn một lý do trong sâu thẳm tâm hồn: đó là tôi cũng là người Việt Nam. Phục vụ cho chính quê hương là khát khao của mỗi người dân Việt".

  • Và những day dứt...

"Tôi sẽ trở về"

Trở về Việt Nam vào năm 2003 từ gợi ý của tiến sĩ Nguyễn Chánh Khê,  giám đốc Trung tâm nghiên cứu và phát triển thuộc khu công nghệ cao TP.HCM (Người Viễn Xứ đã có bài giới thiệu trong mục "Vinh Danh Nuớc Việt"), GS-TS Từ Trung Chấn cho biết anh quyết định đem cả công nghệ này về Việt Nam. Trước mắt, trước mắt công ty sẽ thu hút khoảng 50 chuyên gia trẻ giỏi do chính anh đào tạo ở Đại học Bách khoa TP.HCM và sau đó có thể giải quyết việc làm cho hàng trăm người. Anh cho biết chắc chắn sản phẩm của công ty làm ra sẽ có giá thành rẻ nhất thế giới. Đây là điều kiện để các đồng nghiệp trong nước cạnh tranh với các nước trên thế giới về giá cả lẫn công nghệ và nếu tập trung xuất khẩu sang khu vực Đông Nam Á sẽ đem lại lợi nhuận không nhỏ.

Khá chân tình và cởi mở, anh bộc bạch: "Được sống và làm việc ở Việt Nam tôi rất vui. Sau khi Công ty chính thức hoạt động, tôi dự định đưa vợ con về Việt Nam sinh sống luôn. An cư rồi lạc nghiệp. Tuy nhiên, giá nhà cửa ở Việt Nam đắt quá! Ở Mỹ chúng tôi được mua nhà trả góp, còn ở Việt Nam mua nhà cho vừa ý mình là một điều phải cân nhắc". Cũng rất chân thành, anh góp ý: "Các thủ tục ở Việt Nam còn nhiêu khê quá có khi làm nản lòng nhà đầu tư. Nếu muốn hội nhập tốt, thu hút đầu tư, trước hết Nhà nước phải thoáng về thủ tục. Vẫn còn quá nhiều "cửa" trong giải quyết thủ tục giấy tờ. Theo tôi nên loại bỏ những yêu cầu không thoả đáng như: Chứng minh huyết thống, công chứng một số loại giấy tờ... Những việc làm này vừa mất thời gian vừa không hợp lý dễ gây phiền phức cho những người thực sự muốn trở về phục vụ cho quê hương mình". Anh cười, nói thêm: "Điều tôi lo sợ nhất là vấn đề an toàn giao thông ở Việt Nam. Mỗi lần ra đường cảm thấy bất an quá. Mình chạy xe đàng hoàng nhưng tai nạn vẫn có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Chính phương tiện giao thông cũng gây ra stress cho nhiều người."

Nặng lòng với quê hương, ngày trở về của GS-TS Từ Trung Chấn sẽ không xa. Những gì anh đem lại cho đất nước đó chính là tấm lòng của một người dân Việt xa xứ luôn hướng về đất MẸ...

MINH DIỆU

Gửi tin này qua email In thông tin Gửi phản hồi

 
Trở về đầu trang


NGƯỜI VIỆT BỐN PHƯƠNG

NHÀ KHOA HỌC VIỆT KIỀU BÙI KIẾN THÀNH
Xây dựng một hệ thống tài chính hiện đại cho đất nước
17:15' 11/05/2004 (GMT+7)
 www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/nguoivietbonphuong/2004/05/133378/ 

 

 Ông Bùi Kiến Thành là chuyên gia Việt Nam đầu tiên được đào tạo tại Hoa Kỳ trong lĩnh vực tài chính. Với hơn 40 năm hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ông đã giúp đỡ, tư vấn nhiều vấn đề cho Chính phủ Việt Nam trong một số lĩnh vực kinh tế ngoại giao, hỗ trợ Bộ Ngoại giao Việt Nam đạt được văn bản giải tỏa cấm vận đặc biệt của Chính phủ Hoa Kỳ; tiến hành nghiên cứu chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và thềm lục địa biển Đông. Ông là cố vấn cấp cao chịu trách nhiệm về đánh giá khả năng bảo hiểm và tài chính ở Hà Nội, phối hợp dự án điện  Phú Mỹ 2-2, hỗ trợ cho Công ty Tư vấn và thiết kế KHM. Ngoài ra ông còn giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban quan hệ Chính phủ - Phòng Thương mại Hoa Kỳ. Phóng viên Người Viễn xứ đã có cuộc trao đổi riêng với ông.

Ông Bùi Kiến Thành

  •  Một nền tài chính mạnh

- Phóng viên: Với hơn 40 năm hoạt động trong thị trường tài chính quốc tế Mỹ, ông nhận định như  thế nào về nền tài chính ở nước Mỹ nói riêng và toàn thế giới nói chung? 

- Ông Bùi Kiến Thành: Nền tài chính Hoa kỳ và thế giới là những thị trường đã trưởng thành, Việt Nam ta còn nhiều điều cần phải học hỏi và ứng dụng. Riêng về Mỹ mỗi năm giao dịch tài chính đã lên đến hằng trăm nghìn tỷ USD, khó mà tính cho chính xác. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại, còn có hệ thống ngân hàng đầu tư, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, các thị trường chứng khoán xuyên quốc gia, các sàn giao dịch mua bán hàng hoá,  nông sản, thực phẩm và các “sản phẩm tài chính” đủ loại.  

Dịch vụ tài chính là huyết mạch nuôi sống và phát triển nền kinh tế, từ sản xuất đến phân phối và tiêu thụ. Áp suất của huyết mạch tài chính báo hiệu cho sức khoẻ của nền kinh tế. Hàng ngày các cơ quan quản lý tài chính liên bang theo dõi các số liệu, chỉ tiêu, tỷ số thống kê về lưu lượng tiền bạc, tín dụng v.v.. để điều chỉnh kịp thời các “van” điều tiết phục vụ cho nhu cầu của xí nghiệp cũng như người tiêu dùng. 

Một khía cạnh đặc biệt của thị trường tài chính Mỹ là lĩnh vực tín dụng phục vụ người tiêu dùng. Trong một nền kinh tế thị trường “Khách hàng là thượng đế” là người tiêu thụ sản phẩm, là “đầu ra” của hoạt động sản xuất. Nếu đầu ra bị tắc, “khí mạch không đều” thì nền kinh tế sẽ bị “ốm” và có khả năng bị khủng hoảng hay suy thoái. Người tiêu dùng đây bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước qua việc cung ứng cho quốc phòng, an ninh, tư pháp, giáo dục, y tế v.v…; các xí nghiệp qua việc mua bán nguyên liệu sản xuất, trang thiết bị, dự trữ tồn kho; và tư nhân qua việc mua sắm hàng tiêu dùng hàng ngày, xe ôtô, nhà ở, thiết bị nội thất v.v… 

Có thể khẳng định rằng nếu không có hệ thống tín dụng cho người tiêu dùng thì nền kinh tế Mỹ không thể phát triển như hiện nay. Có thể nói rằng qua những chương trình lợi ích công cộng nước Mỹ đã phát triển mạnh nhờ sức “tiêu thụ” lớn của nhà nước. Và nhà nước đã được cung cấp phương tiện để “tiêu thụ” qua các hệ thống tài chính phát hành trái phiếu và huy động tín dụng trong nhân dân.  

Có thể nói là đại đa số người Mỹ đều vay tiền với thời hạn từ 10 năm đến 30 năm để mua nhà ở. Đa số người Mỹ mua xe ôtô, tivi, tủ lạnh, máy giặt v.v…  đều vay tín dụng từ 2 năm đến 5 năm. Thậm chí có nhiều người Mỹ mua quần áo, thời trang với tiền vay từ 3 tháng đến 6 tháng. Các cửa hàng còn quảng cáo rao bán hàng tiêu dùng với khẩu hiệu: “Giao hàng ngay, chỉ trả tiền sau 3 tháng”. 

Ông Bùi Kiến Thành gặp gỡ Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh

Các thị trường tài chính khác trên thế giới, ít nhiều đều mô phỏng theo thị trường tài chính Mỹ. Thêm vào đó thị trường tài chính thế giới hoạt động không ngừng suốt 24/24 giờ. Theo chiều quay của mặt trời, mỗi ngày thị trường Tokyo mở cửa hoạt động trước tiên, rồi đến Sydney, Hong Kong, Seoul, Shanghai, Singapore, Thái Lan, Malaysia … Bombay, Moscow, Berlin, Paris, London … vượt qua Đại Tây Dương đến Mỹ, Canada … không lúc nào ngừng, không hề tắt máy đi ngủ! 

- Còn thị trường chứng khoán ở Việt Nam? 

- Ở Việt Nam ta trong vài năm nay mới có thị trường chứng khoán, với hơn 20 công ty đăng ký bán cổ phiếu. Một sàn “thử nghiệm” cho giao dịch trao đổi tài chính giữa các ngân hàng. Những ngân hàng lớn đều là quốc doanh hoạt động theo chỉ thị, không thật sự có quyền chủ động. Nhận tài trợ nước ngoài, không phân biệt số lượng kể cả những con số tí hon, đều phải được Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt sau khi được các Bộ ngành liên quan xem xét và đệ trình. Có thể nói là hiện nay “cậu bé” kinh tế Việt Nam, với tiềm năng to lớn, đang thiếu dinh dưỡng và oxy tài chính. Nếu tình trạng này kéo dài “cậu bé” kinh tế Việt Nam có khả năng mắc bệnh “to đầu”, suy nhược, không đủ sức để đối đầu với những cam go thử thách của một thế giới thị trường canh tranh khốc liệt. 

- Ông có những dự định gì đóng góp cho sự phát triển của nền tài chính nước nhà? 

Chăm lo thế hệ trẻ

- Là một chuyên gia tài chính tôi rất mong muốn được góp phần xây dựng một hệ thống tài chính hiện đại cho đất nước. Trong những năm tới chính sách của nhà nước cổ phần hóa những ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ phần nào thúc đẩy việc phát triển dịch vụ ngân hàng, nhất là tín dụng cho lĩnh vực tư nhân. Ngoài ra Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng hệ thống các ngân hàng đầu tư để phục vụ cho phát triển. Trong bước đầu, chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm thị trường ta có thể tạo điều kiện cho các ngân hàng đầu tư quốc tế hợp tác. Có thể nói tại Hoa Kỳ cũng như trên toàn thế giới vốn trung hạn và dài hạn để phát triển phần lớn là do các ngân hàng đầu tư cung cấp. 

Ngoài ra, tôi rất quan tâm đến việc xây dựng những hành lang pháp lý để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khuyến khích tư duy độc lập, sáng kiến cá nhân, tạo tiền đề cho hội nhập quốc tế, đưa Việt Nam từng bước vươn lên những đỉnh cao của phát triển kinh tế, xã hội, dân chủ, văn minh. 

  • Đại đoàn kết dân tộc

-Theo ông, chúng ta cần làm thế nào để cho những Việt kiều ngày càng đóng góp cho nước nhà nhiều hơn nữa? 

- Chính sách của nhà nước đã công nhận Việt kiều “là một thành phần không tách rời của cộng đồng dân tộc”. Chính sách này cần được thể hiện cụ thể bằng những quyết định thiết thực của Quốc Hội và Chính phủ. Nhà nước Việt Nam nên chủ động lấy những quyết định có sức san bằng phân biệt đối xử, thật sự thu phục lòng người. 

Ngày xưa một nửa anh em theo cha xuống biển, một nửa theo mẹ lên non, nhưng dân tộc ta trước sau vẩn là một không hề phân biệt. Ngày nay 3 triệu anh em sinh sống ở nước ngoài, 80 triệu ở lại với quê cha đất tổ, sao ta cứ duy trì những tư duy và phân biệt đối xử giữa người Việt trong nước và người Việt ở nước ngoài? 

Hoàn cảnh lịch sử đã tạo nên phân ly, nhưng chúng ta hoàn toàn có đủ khả năng xoá bỏ những bức tường ngăn cách để tất cả anh em đồng bào bất kỳ ở đâu đâu trên khắp thế giới đều là anh em một nhà, đồng quyền hạn và trách nhiệm đối quê hương đất nước.  

Sự hợp tác của cộng đồng người Hoa trên khắp thế giới là một động lực tích cực cho sự nghiệp xây dựng đất nước Trung Quốc hiện đại. 

Người Do Thái ở Israel và cộng đồng người Do Thái trên khắp năm Châu đều là công dân Do Thái, đồng quyền hạn và trách nhiệm đối với quê hương đất nước của mình.. Sự đồng tâm hợp lực của cộng đồng người Do Thái nước ngoài với đồng bào trong nước đã góp phần xây dựng lên một tổ quốc Israel hùng mạnh trong một thế giới đầy hiểm nguy. 

Xây dựng TP. HCM thành trung tâm kinh tế

Đây là những gương sáng cho Việt Nam ta nghiên cứu. Từ ngàn xưa mẹ Âu Cơ đã để lại cho chúng ta bài học. Từ Israel và Trung Quốc ta có thể rút ra những kinh nghiệm và quyết định có sức thuyết phục cộng đồng người Việt khắp nơi nhiệt tình đóng góp xây dựng đất nước. Nhà nước đã công nhận người Việt Nam ở nước ngoài là “thành phần không tách rời của cộng đồng dân tộc” thì nên có quyết định dứt khoát công nhận tất cả người Việt Nam bất kỳ ở đâu đều là con dân Việt Nam, là công đân Việt Nam không phân biệt nơi cư trú. 

Đây là giải pháp dứt khoát tạo nền tảng tâm lý và pháp lý đề cho anh em khắp nơi hướng về quê hương, đem hết sức mình để xây dựng và bảo vệ đất nước. 

- Ông có dự định gì trong tương lai để tham gia vào nội dung vừa nêu? 

- Tôi sẽ kiên trì góp ý xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vì mục đích dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Và khuyến khích anh em người Việt mà tôi có thể tiếp cận được hãy đem hết tài năng và trí tuệ của mình để góp phần xây dựng đất nước mình giàu đẹp hơn, tự do hơn, hạnh phúc hơn. 

Sau hơn năm mươi năm du học và hoạt động kinh doanh ở nước ngoài, tôi rất hạnh phúc trở về sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Tôi cảm thấy những hoạt động của mình hàng ngày, từ việc nhỏ đến việc lớn, đều có ý nghĩa tốt đẹp. Những đóng góp nhỏ bé của tôi là một viên gạch cho tòa nhà chung để cho các thế hệ hôm nay và mai sau chung sống trong an bình hạnh phúc. 

Về hoạt động tài chính kinh tế, tôi mong được góp phần đưa Việt Nam lên hàng đầu các nước phát triển trong khu vực. Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng và trí tuệ cần thiết. Vấn đề là quyết tâm, bản lĩnh và phong cách lãnh đạo. 

Về các dự án cụ thể, tôi có hai hoài bão.  

Một là góp phần xây dựng Cảng Quốc Tế Văn Phong cách Nha Trang 80 Km về hướng Bắc. Với độ nước sâu hơn cả các cảng lớn trong khu vực, kể cả Yokohama ở hướng Bắc cho đến Singapore về hướng Nam, với diện tích hơn 75 nghìn hecta mặt biển và hơn 80 nghìn hecta đất liền vịnh Văn Phong có địa thế và tiềm năng để trở thành cảng hàng hải lớn nhất Đông Nam Á, một thành phố cảng ngang tầm với Thượng Hải  hoặc San Francisco. 

Hai là quy hoạch và xây dựng thành phố Hồ Chí Minh thành môt đô thị hiện đại của thế kỷ 21. Cụ thể là tôi dề nghị quy hoạch lại khu vực Dinh Thống Nhất, đại lộ Lê Duẩn, đến vườn Bách Thảo. Tôi chủ trương phá dỡ Hội trường Thống Nhất hiện nay, và xây dựng tại nơi đây một tòa tháp 150 tầng thể hiện cho ý chí vươn lên của dân tộc Việt Nam. Dọc theo hai bên Đại lộ Lê Duẩn (Thống Nhất) sẽ là những tòa nhà được thiết kế hài hòa và hiện đại hướng về thế kỷ 22 và xa hơn nữa. Vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long đã mở ra một kỷ nguyên mới cho các triều đại Lý, Trần, Lê suốt 900 năm. Thành phố Sài Gòn/Hồ Chí Minh sẽ là kinh đô kinh tế của dân tộc Việt Nam trong tương lai nghìn năm phát triển với cộng đồng  ASEAN mở rộng. 

  • "Bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến"

- Khi ông  được vinh dự là chuyên gia Việt Nam đầu tiên được đào tạo tại Hoa Kỳ trong lĩnh vực tài chính, suy nghĩ của ông như thế nào? 

Cầu Thê Húc - Hà Nội

- Năm 1955 tôi đang công tác tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (miền Nam) thì được gửi đi Mỹ đào tạo cao cấp về tài chính ngân hàng. Sau đó tôi được cử làm Đại diện Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam tại New York. Tôi được có cơ hội tiếp xúc với lãnh đạo cấp cao của cộng đồng tài chính ngân hàng Mỹ, các quan chức của chính phủ Mỹ, những lãnh đạo chính trị, văn hoá, xã hội của nước Mỹ. Cảm nghĩ của tôi lúc bấy giờ là triệt để học hỏi, rút kinh nghiệm, xây dựng quan hệ để mai sau có cơ hội sử dụng vào những công tác phát triển đất nước. Là một trong những “chuyên gia Việt Nam đầu tiên” được chính thức gửi đi “đào tạo tại Hoa Kỳ trong lĩnh vực tài chính” càng làm cho tôi cảm thấy mình có trách nhiệm, ân sâu nghĩa nặng đối với đồng bào bữa đói bữa no, đang lao động vất vả bất kể nắng mưa trên mọi miền đất nước. 

Trong những năm gần đây tôi rất hạnh phúc có cơ hội áp dụng những kinh nghiệm của mình để góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường; xây dựng hành lang pháp lý cho nhà nước pháp quyền; vận dụng những quan hệ trước kia với các bè bạn Mỹ để hỗ trợ cho việc thiết lập quan hệ bình thường Việt-Mỹ, bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên thềm lục địa. Việt Nam có 330.000 Km2  diện tích trên đất liền, nhưng hơn 1.000.000 km2 hải phận trên thềm lục địa, công trình nghiên cứu cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên thềm lục địa là một trong những đóng góp của các bè bạn Mỹ. 

-Ông suy nghĩ gì về những thành công của mình? 

- Những thành công của tôi trước kia trong miền Nam nay đều do nhà nước quản lý, quốc hữu hoá, một phần nào đã hóa giá hay cổ phần hoá. Tài sản tư nhân biến thành tài sản của nhà nước, rồi lại chuyển thành tài sản của tư nhân. Với nguyên tắc “uống nước nhớ nguồn”, tôn trọng quyền tự do kinh doanh của nhân dân, những việc đổi thay này có vấn đề và cần phải xem xét lại. 

Về những đóng góp của tôi trong sự nghiệp đổi mới, từ buổi ban sơ góp ý đối với khẩu hiệu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đến các đề xuất cải cách kinh tế tài chính, tôi rất hạnh phúc được thấy những góp ý của mình dần dần đi vào hiện thực. 

Tôi còn nhớ những buổi thảo luận với các chuyên gia, viên chức, đại biểu Quốc hội, Nghị sĩ Mỹ trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90. Mọi người đều bảo tôi rằng nước với lửa không thể chung sống với nhau, dầu và nước không thể hoà đồng với nhau, một nền kinh tế kế hoạch tập trung không thể biến đổi thành một nền kinh tê thị trường, một chế độ “chuyên chế vô sản” không thể lột xác để biến thành một nền dân chủ pháp quyền, của dân, do dân, và vì dân. 

Tôi còn nhớ những buổi làm việc với các vị lãnh đạo Việt Nam, tôi phát biểu ý nghĩ của mình với tất cả tấm lòng chân thật, biết sao nói vậy, còn việc sử dụng như thế nào là tùy người có trách nhiệm quản lý nhà nước. 

Tôi rất thú vị khi nhận thấy rằng, mặc dù có phần chậm chạp, nhưng cuối cùng những gì xét ra hợp lý và bổ ích cũng được thực hiện. Hai mươi năm là một quãng thời gian không dài, nhưng những thay đổi trong cơ chế nhà nước và cơ cấu tổ chức kinh tế xã hội Việt Nam đã tiến lên một bước khá dài làm cho các chuyên gia và các nhà phân tích kinh tế, chính trị, xã hội không khỏi kinh ngạc.  

-Trong cuộc sống của mình, ông có rút ra bài học kinh nghiệm gì để truyền lại cho thế hệ trẻ? 

Bản sắc văn hóa dân tộc

- Một trong những bài học sâu sắc mà tôi rút ra trong quá trình công tác là không có một quan điểm nào là hoàn toàn tuyệt đối chính xác. Mọi việc mọi hoàn cảnh đều có thể biến động theo không gian và thời gian. Do đó người có trách nhiệm phải thức thời và linh động trong quyết định và hành động. Biết nhìn mọi vấn đề dưới nhiều khía cạnh. Biết tôn trọng những quan điểm khác thường, để chọn lựa những giải pháp phù hợp cho công tác trước mắt. 

Người xưa có câu “Bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến”.  Chơn tâm của con người không thay đổi, nhưng để thực hiện bất cứ một việc gì cũng phải tùy theo thời cơ mà ứng biến. Tuy rằng phải ứng biến theo thời cơ, nhưng căn bản không hề thay đổi. Như cây tre uốn theo chiều gió để không đổ ngã, nhưng sau cơn bão táp, cây tre luôn luôn trở lại với tư thế và bản chất thanh tâm quân tử của mình. Con người ta cũng vậy. Nhân phẩm của mình không hề biến đổi, nhưng hành động phải thuận theo thời thế. Thuận theo thời thế, nắm bắt thời cơ, nhưng bản chất trong sáng không hề thay đổi.

- Xin cám ơn ông

CẨM TÚ

Gửi tin này qua email In thông tin Gửi phản hồi

 

 
Trở về đầu trang


Những trái tim Việt Nam trong lòng nước Mỹ
www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/trenduongphattrien/2004/05/114214/ 
11:07' 10/05/2004 (GMT+7)

Trung tâm hội nghị Monterey

Một sự kiện lịch sử đáng chú ý vừa diễn ra tại vùng eo biển Monterey, nơi nghỉ mát Asilomar đẹp nhất của tiểu bang California, Hoa Kỳ - đó là hội nghị "Xây dựng cộng đồng, phát triển tiềm năng" với sự tham dự của 32 trong số 50 Tổ chức phi chính phủ (NGO) của người Mỹ gốc Việt đã quy tụ về đây, cùng ngồi lại để tìm phương thức hiệu quả hơn nhằm góp phần vào sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Nước Mỹ là nước có nhiều tổ chức NGO nhất. Tính đến nay đã có khoảng 61.000 NGO Mỹ hoạt động trong chính nước Mỹ và giúp trực tiếp hoặc gián tiếp qua các trung gian NGO khác (như một số NGO của người Mỹ gốc Việt) thực hiện nhiều chương trình viện trợ nhân đạo ở các nước trên thế giới. Chính sách tài chính của Mỹ khuyến khích người dân Mỹ bỏ tiền ra để tham gia các chương trình nhân đạo bằng cách miễn thuế lợi tức cho phần mà cá nhân đóng góp cho các tổ chức từ thiện được chính phủ cho phép hành nghề chính thức. Các bạn người Mỹ gốc Việt đã áp dụng chính sách này để góp tiền thực hiện những chương trình nhân đạo cho quê nhà.

Từ ý muốn giúp cho đời sống của một vài em nhỏ, các bạn người Mỹ gốc Việt đã dần dần mơ ước đến việc cung ứng phương tiện cho nhiều người để họ tự cải thiện cuộc sống của mình. Từ những hoạt động gây quỹ giới hạn trong vòng cộng đồng người Mỹ gốc Việt, nhiều NGO Việt Nam đã bắt đầu tự hỏi liệu mình có thể giúp nhiều người hơn nếu chúng ta khởi sự nhìn xa hơn và hướng ra ngoài cộng đồng của mình.

Trong nhiều năm qua, những người Mỹ gốc Việt đã cố gắng tìm phương cách giúp người dân ở quê nhà, làm sao có thể làm việc hữu hiệu được, cả ở Việt Nam lẫn trong cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại. Những hoạt động của họ luôn luôn mang tính chất nhân đạo, từ việc góp phần mang học vấn đến cho trẻ em nghèo, miếng ăn cho người đói, mái nhà cho người khốn khó, và thuốc men cho người bệnh, cho đến việc tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của những người ngoài các NGO của người Mỹ gốc Việt biết để giúp xúc tiến những hoạt động nhằm góp một phần cải tiến đời sống của đồng bào ruột thịt bên nhà.

Cảnh đẹp Monterey

Nhu cầu của người dân nghèo vẫn còn rất lớn và ngày càng tăng, song khả năng của các NGO người Mỹ gốc Việt lại luôn bị giới hạn. Mỗi tổ chức chỉ có thể giúp một số ít người ở một vài nơi. Nhiều NGO lại có những hoạt động tương tự nhau, chẳng hạn như xây nhà cho người nghèo, hay xây trường tiểu học. Nhưng vì thiếu thông tin và thiếu kết hợp cho nên họ khó có thể chung sức nhau làm tốt hơn nữa hoặc không có dịp so sánh kết quả của nhau hoặc đánh giá hiệu quả của việc mình làm. Thí dụ một số dự án thành công như "Chương trình chăn bò" của Hội Tương trợ các trẻ em không cha mẹ thực hiện ở Thừa Thiên - Huế: từ một con bê cho em Nguyễn Phước Bảo Cường ở xóm Giống, xã Thủy An, và 19 con bê cho 19 em khác đã được nhân lên 100 con bò trong 3 xóm; chương trình "Bồi dưỡng phương pháp dạy mẫu giáo" cho các trường mẫu giáo Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ đã được Sở Giáo dục và Đào tạo ở các địa phương trên đánh giá rất cao; chương trình "Hợp tác xây dựng trường tiểu học" của Nhóm SAP-VN (Tương trợ xã hội VN) đã đóng góp cùng địa phương xây hàng chục trường tiểu học...

Vịnh Monterey

Qua hội nghị này các thành viên của các NGO người Mỹ gốc Việt cùng nhận thấy là nếu gộp chung lại họ đã giúp người dân ở quê nhà rất nhiều, cả về mặt vật chất lẫn công sức và tâm huyết. Một ưu điểm nổi bật của các NGO Việt Nam so với những tổ chức khác là những người tham gia các dự án tài trợ đều nói tiếng Việt với các đối tác Việt Nam nên hiệu quả tương đối khá khả quan. Giá trị của những đóng góp vừa qua của những người Mỹ gốc Việt không phải ở chỗ số tiền dành dụm được, hoặc quyên góp trong cộng đồng và tranh thủ tài trợ của các tổ chức quốc tế để gửi về thực hiện các chương trình nhân đạo giúp bên nhà, mà là sự cống hiến từ bao nhiêu năm tháng trăn trở, bàn bạc, xây dựng chương trình v.v...

Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam cho biết, từ chỗ có quan hệ hợp tác với 185 tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGO) vào năm 1993, đến nay Việt Nam đã phát triển quan hệ hợp tác với 514 NGO. Trong số đó, 400 tổ chức đã tài trợ cho Việt Nam 16.000 dự án phát triển với tổng mức đầu tư trên 700 triệu USD. Mục tiêu hoạt động của Trung tâm NGO là:

  • Chia sẻ thông tin và hỗ trợ một số hoạt động trong lĩnh vực phát triển, quản lý, đào tạo và tăng cường năng lực cho các cơ quan trong nước;

  • Tăng cường khả năng tiếp cận với những nguồn lực phục vụ cho các hoạt động NGO, kể cả việc đúc kết bằng văn bản những kinh nghiệm của Việt Nam và khu vực

  • Tăng cường mối quan hệ cũng như cuộc đối thoại giữa cộng đồng NGO với Chính phủ Việt Nam, đặc biệt xoay quanh vai trò của NGO tại Việt Nam.

Tại hội nghị này, Giáo sư - Tiến sĩ Võ Tòng Xuân đã có bài phát biểu đề cao sự đóng góp của các NGO người Mỹ gốc Việt, do những người Việt trẻ tuổi đầy nhiệt tình, rất hoạt bát, nói tiếng Mỹ như người Mỹ, có tầm hiểu biết sâu rộng về chuyên môn. Giáo sư cũng đã điểm lại một số thành tựu kinh tế mà đồng bào tại quê nhà, nhất là bà con nông dân, đã cần cù gắng công thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các nước bạn, các tổ chức NGO quốc tế, và NGO Việt Nam. Vấn đề của chúng ta ngày nay là mặc dù có những giúp đỡ quý báu đó, các thành phần kinh tế bên nhà vẫn còn phải đối mặt với những thách thức mới của hội nhập kinh tế toàn cầu.

Phố Monterey

Trong hội nhập, thành phần nông dân, công nhân và những người làm các loại dịch vụ sẽ bị thua thiệt nếu không được chuẩn bị tốt bằng cách nâng cao kiến thức và kỹ năng chuyên môn của mình. Do đó mà mọi sự giúp đỡ của người Việt ở nước ngoài rất là cần thiết vì các bạn vừa có tài chuyên môn, vừa thông tin bằng tiếng Việt, vừa có một ít kinh phí để thực hiện các chương trình. Thời điểm này trong lịch sử Việt Nam đã có thêm một tín hiệu mới, với chính sách mới của Đảng và Nhà nước đón nhận những hỗ trợ quý giá của người Việt ở nước ngoài. Nhìn sang nước láng giềng Trung Quốc, chúng ta thấy người Trung Quốc ở Mỹ đã đưa về nước hàng trăm công ty Mỹ đầu tư cho công nghiệp sản xuất hàng gia công để đưa sang bán ở Mỹ, vừa giải quyết tốt lao động dư thừa của Trung Quốc, vừa mang lại ngân sách dồi dào cho địa phương, góp phần làm cho đời sống nhân dân Trung Quốc ngày càng được nâng cao. Không lý do gì mà nước Việt Nam không tranh thủ được sự giúp đỡ của hàng trăm ngàn chuyên gia, công kỹ nghệ gia người Việt ở nước ngoài.

Tới đây, cộng đồng các NGO Mỹ gốc Việt họp nhau lần này sẽ hợp lực thành một tiếng nói chung nhằm kêu gọi Chính phủ Mỹ góp thêm kinh phí tài trợ cho các chương trình của họ để có thể thực hiện nhiều chương trình lớn hơn đóng góp cho quê hương Việt Nam.

ĐOAN THƯ (Theo Thanh Niên)

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi

 
Trở về đầu trang


"Củng cố chiều hướng tích cực trong quan hệ hai nước"
15:03' 17/12/2003 (GMT+7)
 http://nguoivienxu.vietnamnet.vn/nguoivienxucanbiet/2004/02/50729/ 

Đó là mục đích chuyến thăm Hoa Kỳ của Phó Thủ tướng Vũ Khoan diễn ra từ ngày 2 đến 12/12. Trước giờ lên đường, Phó Thủ tướng đã dành cho VietNamNet một cuộc trao đổi ngắn.

 

- Xin Phó Thủ tướng cho biết mục đích của chuyến đi lần này?

- Phải nói rằng kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1994, quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ đã có những bước phát triển đáng kể. Về mặt chính trị, hai nước có nhiều cuộc tiếp xúc ở các cấp khác nhau. Phía Hoa Kỳ đã có Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Ngoại giao, thậm chí Tổng thống sang thăm Việt Nam. Phía ta cũng có nhiều nhà lãnh đạo sang thăm Hoa Kỳ.

Về kinh tế-thương mại, hai bên đã ký kết Hiệp định thương mại song phương (BTA). Trên cơ sở Hiệp định này, trao đổi buôn bán hai chiều đã tăng lên nhanh chóng, từ khoảng 2 tỷ năm 2001 và năm nay có khả năng tăng lên gần 5 tỷ (trong đó Việt Nam xuất 4 tỷ, nhập của Hoa Kỳ 1 tỷ). Có thể nói quan hệ kinh tế - thương mại hai bên đã có bước phát triển đột biến.

Trong các lĩnh vực xã hội cũng có sự hợp tác, chẳng hạn trong lĩnh vực giáo dục, phòng chống ma túy, các vấn đề nhân đạo. Hai nước cũng đã có những cuộc tiếp xúc về mặt quốc phòng, với chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng W.Cohen năm 2000 và chuyến thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên trong lịch sử của Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà diễn ra gần đây. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận rằng mối quan hệ này chưa ổn định. Giữa hai bên còn tồn tại nhiều khác biệt. Một trong những khác biệt nổi lên là một số giới ở Mỹ thường lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo khiến cho quan hệ hai nước thiếu ổn định.

Do đó, mục đích chuyến đi của tôi chủ yếu là làm sao củng cố chiều hướng tích cực đang diễn ra từ năm 1995 đến nay, đồng thời góp phần đối thoại để giảm thiểu sự khác biệt, từ đó góp phần tạo dựng khuôn khổ quan hệ hai nước ổn định hơn, lâu dài hơn.

- Vậy Phó Thủ tướng có thể cho biết nội dung của chuyến thăm?

- Tôi sẽ tiếp xúc với một số đại diện của chính giới Hoa Kỳ. Hiện nay, đang thu xếp tiếp nhưng chắc chắn sẽ có các cuộc gặp với Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Giao thông, Nông nghiệp, Bộ trưởng Thương mại và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ. Ngoài ra sẽ có rất nhiều cuộc gặp gỡ với các doanh nghiệp Hoa Kỳ ở Chicago, Washington, Kansas, California. Nhân dịp này, hai bên cũng sẽ ký chính thức Hiệp định Hàng không, mở ra một kênh hợp tác mới, tạo thuận lợi cho giao dịch giữa hai nước, nhất là giao dịch kinh tế, thương mại, các nhà doanh nghiệp, du lịch, tạo điều kiện cho bà con Việt Kiều về thăm quê hương dễ dàng hơn.

- Trong chuyến thăm này, Phó Thủ tướng có thảo luận với phía Hoa Kỳ về vấn đề Việt Nam gia nhập WTO?

-  Từ trước đến nay, lãnh đạo Hoa Kỳ, kể cả cấp cao nhất luôn bày tỏ sự ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO. Thậm chí, trong Hiệp định thương mại song phương cũng có một điều khoản, theo đó Hoa Kỳ cam kết ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO. Cuộc gặp của tôi với Đại diện Thương mại Hoa Kỳ cốt để thảo luận hai vấn đề. Một là quan hệ song phương theo BTA tiến triển ra sao, cần phải giải quyết tiếp những vấn đề gì. Nhìn chung vấn đề này không có khúc mắc gì lớn. Dĩ nhiên trong quan hệ buôn bán, việc tranh chấp là chuyện dễ hiểu. Vấn đề quan trọng thứ hai là quá trình đàm phán gia nhập WTO nên thúc đẩy như thế nào. Tôi hy vọng cuộc gặp này sẽ cho chúng ta thông tin mới về cách tiếp cận của Hoa Kỳ đối với cuộc đàm phán này.

  • Vĩnh Mùi - Việt Lâm (thực hiện)
Gửi tin này qua email In thông tin Gửi phản hồi

 

 
Trở về đầu trang


Đẩy mạnh hợp tác Việt - Mỹ trên nhiều lĩnh vực 
www.nguoivienxu.vietnamnet.vn/trenduongphattrien/2004/02/50846/ 
16:50' 11/12/2003 (GMT+7)

 

Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell tiếp Phó Thủ tướng Vũ Khoan tại Washington.

Trong chuyến ghé thăm Washington (Mỹ) vào thượng tuần tháng 12/, Phó Thủ tướng  Việt Nam Vũ Khoan đã hội đàm với rất nhiều quan chức Nhà Trắng trong lĩnh vực an ninh, thương mại, nông nghiệp và một số thượng nghị sỹ Mỹ. Phía Mỹ khẳng định ủng hộ VN gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Sáng qua, trước khi rời Washington đi thăm Chicago, Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã hội đàm với Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell. Hai bên nhất trí việc thực hiện tốt Hiệp định thương mại song phương (BTA) phê chuẩn năm 2001 sẽ là nền tảng cho việc gia tăng các hoạt động đầu tư - thương mại giữa hai nước trong tương lai.

“Chúng tôi muốn phát triển quan hệ với Mỹ trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. VN đang phấn đấu vì sự ổn định và thịnh vượng chứ không phải chỉ là một nước nghèo và là một cuộc chiến tranh như nhiều người Mỹ vẫn nghĩ” - Phó thủ tướng Vũ Khoan trả lời phỏng vấn tờ Washington Times.

Cũng tại thủ đô nước Mỹ, Phó thủ tướng Vũ Khoan đã tiến hành các cuộc gặp với hàng loạt quan chức cao cấp của chính phủ và nghị viện Mỹ như cố vấn an ninh quốc gia C. Rice, Thứ trưởng Thương mại Samuel Bodman, Đại diện thương mại R.Zoellick, Bộ trưởng Nông nghiệp M. Veneman, và Thượng nghị sỹ Chuck Hagel.

Các vị lãnh đạo chính phủ và các nghị sỹ Mỹ khẳng định sẵn sàng mở rộng các lĩnh vực hợp tác về kinh tế, công nghệ, nông nghiệp, giáo dục và phát triển nguồn nhân lực; đồng thời ủng hộ VN gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Trong khuôn khổ chuyến thăm, Thứ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Bích Đạt và Phó Giám đốc Cơ quan Viện trợ phát triển quốc tế Mỹ (USAID) Wendy Chamberlin đã ký thư cam kết thực hiện “Sáng kiến cạnh tranh VN” . Với vốn tài trợ 5,6 triệu USD, dự án hỗ trợ VN tạo khuôn khổ thể chế và chính sách cạnh tranh hơn để tăng đầu tư và tạo thêm việc làm từ khu vực tư nhân, mở rộng các kênh thương mại song phương và thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo.

Giao lưu thương mại, đầu tư giữa Mỹ và VN đã không ngừng được mở rộng kể từ khi hai nước bình thường hoá quan hệ năm 1994. Với việc ký kết BTA năm 2001, Mỹ đã nhanh chóng trở thành bạn hàng lớn nhất của VN với kim ngạch buôn bán song phương năm nay lên tới gần 5 tỷ USD (VN xuất siêu 3 tỷ USD). Cách đây ít ngày, cũng tại Washington, Hiệp định hàng không Việt - Mỹ đã được ký kết, tạo khuôn khổ pháp lý cho hai nước có đường bay thẳng.

(Theo TTXVN)

Gửi tin này qua E-mail In thông tin Gửi phản hồi

 Trở về đầu trang

Bản quyền Báo điện tử VietNamNet, được hỗ trợ bởi phần mềm VASC Orient Soft.
Công ty phần mềm và truyền thông VASC - 99 Triệu Việt Vương, Hà Nội.
Tel: +844 9420798 ; Fax: +844 9420796 ; webmaster@vasc.com.vn