Liên
hoan nhạc Jazz châu Âu lần 3 tại Hà Nội và Tp.HCM
vừa khép lại sau một tuần vừa biểu diễn vừa giao
lưu và “truyền nghề” giữa các nghệ sĩ từ nhiều
quốc gia. Và vẫn như hai liên hoan trước, đêm nhạc
Việt Nam luôn thu hút sự chú ý đặc biệt của cả khán
giả Tây, ta cũng như các nghệ sĩ bạn bè. Không chỉ
để xem ngón nghề của nhau, không dừng lại để nghe
những âm thanh đầy tính thử nghiệm và còn cả một
sự mong chờ những bước tiến của ngôn ngữ jazz
Việt ít nhất là sau mỗi lần “hội nhập” ngắn
ngủi trên sân nhà.
Giai
Điệu Xanh có cuộc trò chuyện với nghệ sĩ saxophone
Trần Mạnh Tuấn (anh vừa tham gia liên hoan cùng ban
nhạc Hanoi Jazz Band của mình - với Vũ Hà, Quốc Hưng,
Alfred Simm-Protz) về những gì rút ra được sau Liên
hoan, về con đường đang đi và sẽ đến của jazz
Việt.
Anh
đã “thấm” được gì từ liên hoan lần này?
Nhiều
lắm. Họ đã gửi đến đây nhiều nghệ sĩ hay hơn,
xuất sắc hơn và đặc biệt là rất sáng tạo. Có
những sự sáng tạo đến mức tôi cảm thấy hình như
hơi “cực đoan”, quá mới, quá lạ ngày cả với
những người chơi jazz và quá xa vời với khán giả.
Như nhóm Schorn-Puntin đấy, họ rất tài năng và sáng
tạo, nhưng âm nhạc của họ quá khó thẩm thấu, có
lẽ vì thế mà nhiều khán giả đã phải bỏ về. Các
nhóm khác đều có tính sáng tạo cực kỳ cao và lối
chơi phóng khoáng cao độ. Tôi thích nhóm Urban Connection
của Na Uy. Họ trẻ mà có những tác phẩm tự sáng tác
rất hay, độc đáo.
Anh
vừa nhấn mạnh đến tính sáng tạo. Quê hương của
jazz không phải ở châu Âu, vì vậy ắt hẳn các nghệ
sĩ châu Âu khi chơi jazz cũng phải tìm cách Âu hoá nó
phần nào, cũng là một trong những yêu cầu sáng tạo.
Vậy từ những gì mắt thấy tai nghe, anh có thể cho
biết những yếu tố âm nhạc bản địa có thể tham
gia vào jazz với tư thế nào?
Tôi
hay nghe người này người kia nói chuyện pha trộn dân
ca với jazz với rock như thể là một trào lưu cách tân
nghệ thuật, theo tôi thì chẳng có trào lưu nào ở đây
cả, mà đó là điều bình thường đương nhiên anh
phải làm. Bản thân tôi cũng đang sử dụng dân ca
Việt trong jazz và tôi làm một cách tự nhiên. Người
ta đã nghe mãi jazz “nguyên bản” rồi thì cũng có
nhu cầu nghe thêm những cái mới, cái lạ. Nhưng không
phải vì thế mà mình trưng ngay ra cái dân ca thuần
gốc của mình với bao nhiêu nhạc cụ dân tộc được.
Tôi muốn đưa ra ngôn ngữ âm nhạc chứ không
phải là tranh-sáo-bầu. Mình đưa cái nguyên gốc của
mình ra họ sẽ không hiểu gì cả, và đương nhiên không
nghe, đó là thất bại.
Âm
nhạc bản địa Việt Nam không đặc sắc nổi bật
bằng của Ấn Độ, Trung Quốc hay Trung Đông. Tôi
muốn dùng chính cái đương đại của họ để
thể hiện ngôn ngữ âm nhạc của mình. Theo tôi, chỉ
như thế mới hy vọng đứng cùng jazz thế giới, chứ
để chơi jazz như người Mỹ thì còn lâu và khó khăn
lắm. Có lần tôi đi tham dự một liên hoan jazz ở
Singapore, phần biểu diễn của Việt Nam (có tôi và
Hồng Nhung) rất được thích và đánh giá tốt, vì
họ thấy có gì đó rất Việt Nam. Gây bất ngờ và
được hoan nghênh nhất là các nghệ sĩ jazz đến từ
Mông Cổ. Họ thật sự xuất sắc trong việc đưa dân
nhạc vào jazz. Trong khi đại diện của Indonesia thì chơi
cực hay, diễn rất tốt nhưng không được một lời
khen nào cả, đơn giản là họ copy y nguyên jazz Mỹ.
Theo
anh nhận thấy, hiện đang có những phương cách nào để
đưa dân ca vào jazz mà các nghệ sĩ Việt đang áp
dụng?
Mỗi
người có một cách, cách của tôi thì tôi đã nói
rồi. Nhưng đang có một sự ngộ nhận ở một số người.
Họ đưa dân ca vào jazz như một sự cải biên dân ca.
Không có một sự cải biên nào cả bởi không thể
sử dụng nguyên một bài dân ca mà nhào nặn nó thành
jazz. Không phải loại hình dân ca nào của Việt Nam cũng
có thể đưa vào jazz được, phải có sự thông suốt
từ tác phẩm “nền” đến sự ứng tác của nghệ sĩ,
cũng chính là sự thông suốt của ngôn ngữ âm nhạc.
Không thể nào tự nhiên hát một bài dân ca rồi
"phiêu", rồi ngẫu hứng lung tung không còn liên
quan gì đến “bản gốc” nữa mà bảo đấy
là jazz.
Bây
giờ nhắc đến chuyện đưa dân ca vào jazz nhiều người
thích nhắc đến ngũ cung như thể đó là đặc sản
của nhạc Việt. Ngũ cung thì trên thế giới này ở đâu
cũng có. Ngũ cung châu Phi còn rất gần với thang âm
của blues-jazz nữa kia, chỉ khác 1 nốt thôi. Như vậy,
theo tôi, điều cần thiết vẫn phải là chọn được
ngôn ngữ âm nhạc phù hợp trong dân ca rồi chơi bằng
những tiết tấu jazz, hiện đại. Hiện nay tôi tìm
thấy “mỏ” của mình ở dân ca đồng bằng Bắc
Bộ và dân ca Mông.
Đó
là về phía những người chơi nhạc jazz, còn khán
giả thì sao? Anh nhận thấy có những thói quen thưởng
thức nào trong những khán giả Việt của nhạc jazz?
Người
Việt nói riêng và Á Đông nói chung thường thích
những gì đẹp, nhẹ nhàng và có phần uỷ mị, họ không
muốn bị sốc khi xem hay nghe nhạc, dù với jazz hay
nhạc nào cũng vậy. Nhiều người ngạc nhiên sau khi
nghe những album hoà tấu của tôi rồi xem tôi biểu
diễn sân khấu. Họ thắc mắc là sao trong đĩa thì
nhẹ nhàng dễ nghe mà sao lên sân khấu thì lại chói
gắt như thế với cùng một bản nhạc. Đó cũng là
một thói quen dễ thông cảm. Bởi giữa album và sân
khấu luôn có sự khác biệt, không thể như ca sĩ hát
lip-sync được. Sân khấu đòi hỏi nhiều tính tiết
tấu cả trong âm nhạc và tác phong biểu diễn cũng như
khả năng ứng tác. Dần dần có lẽ khán giả cũng
quen với điều đó, quen tức là sẽ chấp nhận được
những cái mới, lạ và sáng tạo.
Với
một công chúng như thế, với những phương cách sáng
tạo như anh vừa nói, jazz Việt hiện có diện mạo ra
sao?
Trước
hết phải khẳng định hiện đã có một “trường phái
jazz Việt”, dù còn non nớt thì cũng đã có, nhưng
vẫn còn rất manh mún, theo kiểu mạnh ai nấy làm. Tôi
cũng rất mệt mỏi mỗi khi cần tìm người chơi cùng,
có những ban nhạc jazz lập ra mà cả năm có khi chẳng
diễn chung với nhau được buổi nào. Buồn nhất là
ở Sài Gòn, rất nhiều người chơi nhạc jazz tốt,
rất mê jazz nhưng đi theo jazz thì không. Cũng vì cuộc
sống cả thôi, không thể trách họ được.
Tôi
thấy có một số nhóm trẻ rất triển vọng như Bốn
Anh Em ngoài Hà Nội. Nhưng có lẽ vì các em còn trẻ, có
ít nhiều bốc đồng nên thích những gì gây sốc, gây
ấn tượng, thích phô diễn kỹ thuật, tính âm nhạc còn
rất ít. Đó cũng là điều bình thường thôi. Rồi các
em cũng sẽ lớn lên và chững chạc hơn, khi ấy sẽ hướng
lối chơi đến sự tinh tế. Ngoài ta, tôi còn nhận
thấy có hơi nhiều ảo tưởng về jazz. Dễ thấy
nhất là chuyện kết hợp dân ca mà chúng ta đã nói
hồi nãy. Tiếp nữa là có những người hát bài jazz
nhưng không ra chất, hoặc hát bài pop, "phiêu"
đi một chút rồi bảo là hát jazz.
Việt
Nam đang thiếu người hát jazz. Tôi thấy Trần Thu Hà
rất có tố chất jazz và cũng muốn mời cô ấy hát cùng
mình, không phải hát những bài Mỹ mà là bài Việt
Nam. Nhưng có lẽ cô ấy quá bận rồi. Về chuyện pha
trộn các yếu tố âm nhạc, nếu không biết cách làm
thì sẽ ra một thứ world music vô tội vạ chứ không
phải là jazz. Jazz luôn đòi hỏi sự ứng tác, mỗi
lần biểu diễn phải cho thấy một lần sáng tạo
mới. Tôi hơi buồn khi thấy hình như nghệ sĩ mình ít
người chịu xem, chịu nghe. Nhiều buổi biểu diễn
jazz đẳng cấp cao của các nghệ sĩ nước ngoài, tôi
thấy vắng bóng nghệ sĩ Việt dưới ghế khán giả.
Họ bận quá chăng?
Chắc
là như vậy đấy, "bận" là lý do để giải
thích cho mọi chuyện. Anh có thấy cũng vì
"bận" mà nhiều người còn không biết rõ về
sự xuất hiện của jazz ở Việt Nam, chẳng hạn cho
rằng Quyền Văn Minh là người đầu tiên dưa jazz vào
Việt Nam, dẫn đến những hiểu lầm không hay, bỏ quên
những bậc tiền bối?
Như
tôi đã nói đấy, jazz với nhiều người Việt mình
vẫn còn xa lạ vì thế những hiểu lầm, ngộ nhận này
nọ là dễ hiểu thôi. Jazz đã đến Việt Nam từ lâu
lắm rồi, từ thời Pháp. Ngày ấy đã có những người
Việt chơi jazz. Vì lý do lịch sử mà jazz bị lắng
xuống một thời gian. Ngày tôi đi học, thầy dạy tôi
là ông Hiếu chơi kèn và trống ở Dàn nhạc Giao hưởng
Việt Nam, thời ấy chúng tôi nghe ông chơi jazz ở Câu
lạc bộ Quốc tế (Hà Nội) mà không hề biết đấy là
jazz. Tôi, Quyền Văn Minh, Lương Bình... dã bắt đầu
chơi nhạc jazz theo yêu cầu của một khách sạn ở Hà
Nội. Sau rất nhiều tìm tòi, gặp gỡ những nghệ sĩ
nước ngoài, chúng tôi mới trở thành những người chơi
jazz thực thụ. Tôi cho rằng mỗi người, mỗi thế
hệ chơi jazz đều là kế thừa từ những người đi
trước, cũng như jazz khắp thế giới vẫn nhìn về
jazz Mỹ đấy thôi.
Vậy
trong khi vẫn nhìn về jazz Mỹ để chơi jazz cho ra jazz,
và vẫn phải tìm cách bản địa hoá jazz để có bản
sắc riêng. Theo anh, những người chơi jazz muốn lên đẳng
cấp cao cần phải có tố chất và điều kiện gì?
Nếy
muốn duy trì và nâng cao tay nghề, muốn thành công
với jazz thì phải dành thời gian cho jazz. Chơi jazz đòi
hỏi sự hoàn thiện cao trong kỹ thuật và cảm xúc, vì
thế nhạc công jazz lành nghề có thể chơi tốt các
phong cách, thể loại âm nhạc khác nhau. Những nhạc công
chơi cho Whitney Houston, Sting... theo tôi biết, đều là
những cao thủ jazz bên Mỹ, nhưng vì cuộc sống họ
vẫn chơi pop thôi, mà còn chơi tuyệt hay nữa. Vì
thế, quan trọng nhất vẫn là ý thức với nghề.
Có yêu nghề thì mới làm được!
Anh
có thể hình dung một tương lai gần cho jazz Việt không?
Jazz
Việt phải do người Việt chơi và đầu tiên là phải
chơi cho người Việt nghe được đã. Kinh nghiệm của
bản thân tôi cho thấy cần phải tạo ra được những
khán giả cho jazz Việt bằng cách làm cho họ yêu jazz
một cách từ từ, từ những gì dễ nghe và gẫn gũi
với họ. Gây sốc không tạo được hiệu quả bền
bỉ bằng những gì được thẩm thấu dần dần. Tôi
đã rất ngạc nhiên khi những album độc tấu saxophone
của tôi bán khá chạy so với những đĩa nhạc thời
thượng khác, đơn cử Về quê bán được 10.000
bản trong tuần đầu tiên, đĩa Hạ trắng đã bán
được 27.000 bản trong năm 2002, chỉ thua đĩa Mỹ Tâm.
Đó cũng là jazz ở một mức nào đó đấy chứ?
Tôi
chưa thể nói trước được gì về tương lai gần hay
xa cho nhạc jazz, nhưng với lực lượng khán giả biết
thưởng thức jazz từ dễ đến khó như vậy, jazz
Việt sẽ phát triển. Điều cần thiết cho các nghệ sĩ
là bớt đi những ngộ nhận để làm việc một cách
thực tế với tinh thần cầu tiến thực sự!
|