Le Vietnam apprécie l'analyse de la Conférence des
Nations Unies sur le commerce et le développement -
11/02/2009
Le vice-Premier ministre Hoàng Trung Hai s'est félicité
du rapport de l'UNCTAD (Conférence des Nations Unies sur
le commerce et le développement).
En assistant le 9 février à Genève à la présentation
d'un rapport sur l'investissement étranger au Vietnam,
le vice-Premier ministre, à la tête d'une délégation
gouvernementale vietnamienne, a souligné que
l'investissement direct étranger (IDE) "apportaient une
ressource de capitaux importante pour le développement
du pays". Ce fonds est " une force motrice pour
développer l'industrie, doper l'exportation, accélérer
la restructuration économique et renforcer la
compétitivité nationale", a-t-il estimé.
Ce rapport élaboré par l'UNCTAD avec l'aide du ministère
du Plan et de l'Investissement et des ministères et
services vietnamiens concernés, a analysé le processus
de l'investissement étranger et son rôle dans le pays au
cours de ces 20 dernières années.
Considérant que l'investissement étranger jouait un rôle
clé dans la promotion de la croissance et la lutte
contre la pauvreté, le vice-Premier ministre Hoàng Trung
Hai a réaffirmé la détermination du gouvernement
vietnamien de perfectionner l'environnement
d'investisse- ment. Le gouvernement vietnamien était
"convaincu" que ce rapport accélérerait l'investissement
étranger dans le pays, suisse notamment, a déclaré le
vice-Premier ministre.
Pour sa part, le président du Conseil de l'UNCTAD,
Debapriya Bhattacharya, et le secrétaire général adjoint
de cette organisation, Lakshmi Puri, a estimé que la
participation vietnamienne à la réunion traduisait
"l'engagement du Vietnam de perfectionner son
environnement d'investissement". Les représentants des
États-Unis, de Singapour, du Japon, de l'Indonésie, de
Chine, de France, d'Irlande, d'Australie, du Burundi et
des responsables d'entreprises suisses et européennes se
sont félicités des résultats socioéconomiques que le
Vietnam ont récoltés l'an passé, notamment dans
l'attraction de capitaux étrangers, et se sont engagés à
poursuivre leurs investissements.
Selon ce rapport, si en 1986, le taux de pauvreté au
Vietnam atteignait 60%, après 20 ans de Renouveau, il
n'était plus que de 20%. Notamment, après l'adhésion du
pays à l'Organisation mondiale du commerce, l'IDE a
atteint en 2008 le chiffre record de 64 milliards de
dollars. Selon la communauté internationale, 3 facteurs
expliquent ce succès : la politique de Renouveau, le
passage à l'économie de marché et l'intégration à
l'économie mondiale.
Le même jour, la délégation vietnamienne, en
collaboration avec l'UNCTAD, a organisé une table ronde
avec des responsables de grandes entreprises suisses.
Representatives of the UN
member economies and leading global economic
groups atttended the conference. (Photo:
chinhphu.vn)
VietNamNet Bridge - With US$64 billion worth of
foreign direct investment (FDI) flowing into Vietnam
last year, the country will still be an attractive
FDI destination for foreign businesses in the
future, according to representatives of the UN
member economies and leading global economic groups.
Foreign delegates shared this view at a conference
in Geneva, Switzerland, on February 9, which
reviewed Vietnam’s investment policy.
A
report drafted by the UN Conference on Trade and
Development (UNCTAD) says that Vietnam has undergone
an impressive process of transformation from an
isolated, poor and collectivised agriculture-based
economy into a booming nation with a dynamic and
diversified private sector coexisting with a large
public sector, fully integrated into the world
economy. It highlights that poverty has been reduced
at one of the fastest rates in history. With about
60 percent of its population living under the
poverty line in 1986, this figure has fallen
dramatically to below 20 percent at present.
According to the report, foreign investors have
played a major role in these outcomes, generating
employment, wealth, diversification and exports. The
inflow of FDI into the country has increased
significantly, particularly after it joined the
World Trade Organisation (WTO) in 2007. Its FDI last
year hit a record all-time high of US$64 billion.
Foreign delegates attributed the FDI boom to the
country’s Doi Moi (Renewal) process, its shift to
the market economy and its international economic
integration.
Delegates from Singapore, Japan and France described
Vietnam as a leading FDI destination and an
important link in the global economic chain. They
said that Vietnam has adopted more flexible and
effective solutions to ease the global economic
slowdown and financial woes than other countries. It
also has good medium- and long-term prospects for
economic development.
Singaporean Ambassador Tan York Chor said that the
Vietnamese Government has issued many radical and
pragmatic policies to attract foreign investors. He
also noted that Singapore ranks fifth among foreign
investors in Vietnam with a total registered capital
of US$10 billion and that the country is proud of
being Vietnam’s partner.
The
negotiator for Economic Partnership Agreements under
the Japanese Ministry of Foreign Affairs, Daisaku
Sugihara, said that FDI has played an important role
in Vietnam’s economic development, poverty
reduction, job generation and international economic
integration. He added that both Japan and Vietnam
are speeding up the implementation of cooperative
agreements to boost the flow of FDI into the
Southeast Asian nations.
Representatives from leading economic groups such as
Holcim, Accor and Nestle also shared the view that
Vietnam has great potential for attracting FDI.
To
lure more FDI in the future, delegates proposed that
Vietnam accelerate its legal and administrative
reform relating to land, tax and customs procedures,
treat domestic and foreign investors equally,
improve the quality of its human resources and
enforce intellectual property rights.
Addressing the meeting, Deputy Prime Minister Hoàng
Trung Hải welcomed valuable international
assessments of Vietnam’s investment policies.
“The
UNCTAD report shares our viewpoint that FDI is the
driving force behind economic growth and poverty
reduction and that FDI contributions to Vietnam’s
development are greater than in any country in the
region”, said Mr Hai
“Vietnam still has a lot of potential for luring
more foreign capital and is one of the six most
attractive economies for foreign investors as
defined by the Global Investment Prospect 2007,”
said the Deputy PM.
He
assured the delegates that the Vietnamese Government
will keep reforming policies and improve its
investment environment to build on investors’ trust.
Lượng vốn đăng ký cho 10 dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất năm 2008 đạt 44,2 tỷ USD, chiếm
69% tổng vốn vào Việt Nam. Cơ cấu của các dự án trong Top 10
cũng cho thấy bức tranh chung về vốn FDI cấp mới trong cả
năm.
>
Việt Nam từ chối dự án thép gần 8 tỷ USD
Dù vốn đăng ký vượt 44 tỷ USD, song tổng vốn
điều lệ mà các chủ đầu tư của top 10 dự án nắm giữ thực tế
vào khoảng 8 tỷ USD. Nguồn vốn còn lại cho các dự án sẽ được
huy động trong quá trình thực hiện. Ngoài một liên doanh thuộc
lĩnh vực viễn thông, các dự án còn lại đều nằm trong các
nhóm lọc hóa dầu, thép và bất động sản - du lịch.
Dưới đây là 10 dự án đăng ký lớn nhất năm,
theo tổng hợp của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư).
Khu vực sẽ xây dựng khu du lịch Hồ
Tràm tại Bà Rịa Vũng Tàu.
Ảnh: Viettransfer
1. Dự án thép của Lion và
Vinashin: 9,8 tỷ USD
Dự án lớn nhất năm được cấp
phép vào tháng 9, cho liên doanh giữa Tập đoàn Lion của
Malaysia và Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin)
với tổng vốn đầu tư 9,79 tỷ USD, trong đó Việt Nam góp 26% vốn.
Khu liên hợp có tên Cà Ná, đặt tại Cụm công nghiệp Dốc Hầm,
huyện Ninh Phước, Ninh Thuận, gồm nhà máy sản xuất thép nóng,
thép nguội, nhà máy oxy, cảng biển và nhà máy nhiệt điện.
Khu liên hợp thép của Lion và Vinashin được
thực hiện trong 4 giai đoạn, bắt đầu ngay từ năm 2008 và
hoàn thành vào năm 2025. Công suất của nhà máy thép có vốn đầu
tư 2,7 tỷ USD trong giai đoạn một từ nay đến năm 2010, và đạt
tổng công suất 14,42 triệu tấn khi hoàn thành.
2. Dự án thép của Formosa:
7,8 tỷ USD
Tập đoàn Hưng Nghiệp (Formosa) của Đài
Loan đầu tư 7,8 tỷ USD vào khu công nghiệp Vũng Áng, Hà Tĩnh
để sản xuất thép và kinh doanh cảng biển. Khi được cấp phép
vào tháng 6, dự án này thu hút rất nhiều sự chú ý, bởi vượt
xa số vốn kỷ lục 5 tỷ USD của chuỗi dự án Foxconn năm 2007.
Khu liên hợp thép của Formosa sẽ hoạt động
trong 70 năm, và chia làm 2 giai đoạn. Trong giai đoạn một,
nhà máy thép có công suất 7,5 triệu tấn gang thép mỗi năm.
Giai đoạn 2 của dự án có công suất 15 triệu tấn. Các sản phẩm
chính của nhà máy sẽ là phôi thép, thép cuộn và thép thành
phẩm. Ngoài luyện kim, sản xuất thép, dự án của Formosa cũng
đầu tư vào kinh doanh cảng biển tại khu công nghiệp Vũng Áng.
3. Nhà máy lọc dầu Nghi
Sơn: 6,2 tỷ USD
Đây là nhà máy lọc dầu thứ
hai của Việt Nam, sau Dung Quất, do liên doanh của Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Dầu khí quốc tế Kuwait (KPI),
công ty Idemitsu Kosan (IKC) và công ty Hóa chất Mitsui
(MCI) của Nhật thực hiện.
Vị trí nhà máy lọc dầu Nghi Sơn.
Nguồn: PVN
Nhà máy này đặt tại khu kinh
tế Nghi Sơn, Thanh Hóa và khi hoàn thành vào năm 2013, sẽ có
công suất 200.000 thùng dầu mỗi ngày, tương đương 10 triệu tấn
mỗi năm. Phía Việt Nam sẽ góp 25,1% vốn trong dự án, KPI và
IKC cùng góp 35,1%, và MCI 4,7%. Phía Kuwait cung cấp toàn bộ
nhu cầu dầu thô của nhà máy, vào khoảng 10 triệu tấn mỗi năm
cho giai đoạn đầu và tăng lên 20 triệu tấn khi mở rộng dự án.
Việc PVN tham gia liên doanh với các doanh
nghiệp FDI tại nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn nằm trong chiến
lược phát triển khâu sau dầu khí của tập đoàn này, nhằm đảm
bảo an ninh năng lượng và phát triển công nghiệp hóa dầu
cũng như công nghiệp phụ trợ.
4. Dự án bất động sản New
City: 4,3 tỷ USD
Dự án này do một nhà đầu tư từ
Brunei, công ty New City Properties, thực hiện với số vốn
4,34 tỷ USD tại tỉnh Phú Yên. Chủ đầu tư dự án sẽ kinh doanh
bất động sản, dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng. Cùng với
đó là các dịch vụ văn phòng, nhà ở, biệt thự cho thuê.
5. Khu du lịch Hồ Tràm: 4,2
tỷ USD
Khu du lịch của Tập đoàn
Asian Coast Development Ltd (Canada) được cấp phép vào tháng
5, nằm tại xã Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, với tiêu chuẩn
5 sao, rộng 169 ha.
Điểm được nhiều người quan
tâm ở khu du lịch này là nó sẽ bao gồm một sòng bạc phong
cách Las Vegas đầu tiên tại Việt Nam, với hơn 500 máy đánh bạc
và khoảng 90 bàn chơi bài. Cùng với đó là khu điều dưỡng,
vui chơi giải trí phức hợp, trung tâm hội nghị triển lãm quốc
tế và 2 khách sạn cao cấp. Giai đoạn một sẽ hoàn thành cuối
năm 2010. Giai đoạn hai sẽ xây dựng thêm một khu resort nữa,
với 1.300 phòng, 10 nhà hàng, câu lạc bộ đêm, dự kiến mở cửa
vào năm 2011. Toàn bộ dự án hoàn thiện sau 10 năm.
6. Tổ hợp hóa dầu Long Sơn:
3,7 tỷ USD
PVN, Tổng công ty Hóa chất (Vinachem)
và 2 doanh nghiệp Thái Lan đã thành lập liên doanh để xây dựng
tổ hợp hóa dầu thứ ba tại Việt Nam, sau các nhà máy Dung Quất
và Nghi Sơn, với tổng vốn trên 3,77 tỷ USD. Dự án này được cấp
phép vào tháng 7, thực hiện tại Khu công nghiệp dầu khí Long
Sơn, TP Vũng Tàu.
Tổ hợp sẽ sản suất và tiêu thụ các hóa chất
cơ bản, khí công nghiệp, nguyên liệu nhựa, các sản phẩm từ dầu
khí và các sản phẩm hóa dầu khác. Dự án cũng bao gồm cảng, cầu
cảng chuyên dùng và các kho bãi phục vụ tổ hợp. PVN và
Vinachem lần lượt góp 18% và 11% trong vốn điều lệ của dự án.
Hai doanh nghiệp Thái Lan là Công ty TNHH Vina SCG và Công
ty TNHH nhựa và hóa chất Thái Lan góp 53% và 18%. Dự án thực
hiện từ quý III năm nay, đến cuối năm 2016 sẽ hoàn tất,
trong đó dự kiến hạ tầng cơ sở chung hoàn thành vào năm
2011.
7. Đô thị đại học quốc tế
Berjaya: 3,5 tỷ USD
Dự án này do công ty Berjaya
Leisure (Malaysia) thực hiện tại TP HCM. Tổng vốn đăng ký của
dự án là 3,5 tỷ USD, vốn điều lệ là 750 triệu USD. Chủ đầu
tư dự kiến xây dựng một đô thị đại học quốc tế, gồm các khu
dân cư, thương mại, giải trí và y tế.
8. Liên doanh Gtel Mobile:
1,8 tỷ USD
Công ty Viễn thông di động
toàn cầu Gtel Mobile là liên doanh giữa Tổng công ty Viễn
thông toàn cầu GTel (Bộ Công an) và tập đoàn Vimpel - Com của
Nga, với tổng vốn 1,8 tỷ USD. Trong đó, GTel nắm giữ 60% cổ
phần, Vimpel - Com 40%. Đối tác của Gtel, Vimpel - Com là tập
đoàn dịch vụ di động lớn thứ hai của Nga, chuyên đầu tư và
khai thác dịch vụ viễn thông tại nước này và nhiều quốc gia
SNG.
9. Tổ hợp nghỉ dưỡng
Starbay: 1,6 tỷ USD
Công ty Starbay thuộc British
Virgin Islands, một quần đảo tại vùng Caribê thuộc Vương quốc
Anh, là chủ đầu tư dự án này. Tổ hợp đặt tại tỉnh Kiên Giang,
gồm khu nghỉ dưỡng phức hợp, sân golf và căn hộ cho thuê.
10. Khu khách sạn, giải trí
Good Choice: 1,3 tỷ USD
Dự án này gồm khách sạn 5 sao,
vui chơi giải trí, các khu dịch vụ hội nghị, ẩm thực, triển
lãm và y tế tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Chủ đầu tư là tập đoàn
Good Choice của Mỹ, với vốn đăng ký cho dự án 1,299 tỷ USD.
Ngoài 80 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) hoạt động tốt nhận giải thưởng Rồng Vàng
như mọi năm, chủ đầu tư những dự án có vốn đăng ký trên 1 tỷ
USD vào Việt Nam cũng được tôn vinh.
Bộ Kế hoạch Đầu tư và Thời báo Kinh tế Việt
Nam vừa công bố 80 doanh nghiệp xuất sắc được trao giải Rồng
Vàng, giải thường niên dành cho những doanh nghiệp FDI có
thương hiệu tốt và nhiều đóng góp cho nền kinh tế. Trong đó,
các tiêu chí được nhấn mạnh là phát triển bền vững trong bối
cảnh kinh tế khó khăn, có chỉ số tín nhiệm tín dụng ngân
hàng tốt và bảo vệ môi trường. Những doanh nghiệp này sẽ nhận
giải vào đầu năm 2009.
Ngoài ra, chủ đầu tư 11 dự án có vốn FDI
đăng ký trên 1 tỷ USD cũng được tặng kỷ niệm chương. Trong số
này có các dự án FDI lớn nhất từ trước đến nay tại Việt Nam
như khu liên hợp thép của tập đoàn Lion (Malaysia) và
Vinashin 9,8 tỷ USD, dự án thép của Formosa (Đài Loan) 7,8 tỷ
USD, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn 6,2 tỷ USD.
Năm 2008, Việt Nam thu hút lượng vốn FDI kỷ
lục, trên 60 tỷ USD, trong đó rất nhiều dự án có quy mô lớn.
Trong bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới biến động, lượng
vốn lớn đăng ký vào Việt Nam được đánh giá là một diễn biến
tích cực của nền kinh tế.
Ces derniers temps, les milieux des affaires s'inqui-ètent
du rythme de décaissement des fonds des projets
d'investissement direct étranger (IDE) en cours de
déploiement et de la faisabilité de quelques nouveaux
projets.
Depuis juin, le fonds décaissé n'a atteint qu'un
milliard de dollars par mois, un résultat inférieur à la
moyenne sur la période de janvier à juin. "Du fait que
les banques rencontrent des difficultés, le rythme de
décaissement des fonds des projets d'IDE laisse à
désirer", fait remarquer Phan Huu Thang, chef du
Département de l'investissement étranger, relevant du
ministère du Plan et de l'Investissement (MPI). Phan Huu
Thang pense qu'il faut des "mesures efficaces pour faire
face le plus tôt possible à ce phénomène", sans quoi le
pays pourrait connaître un mauvais "scénario" comme
celui de 1997-1998.
De plus, les experts doutent de la faisabilité de
certains grands projets et relativisent les capitaux
annoncés. En effet, le pays a accueilli bon nombre de
projets cumulant un investissement élevé. Or, pour les
spécialistes, ces projets seront difficiles à mettre en
oeuvre en l'espace d'un ou 3 ans. Un exemple, les 11
plus grands projets cumulent un fonds de plus de 45
milliards de dollars, soit environ 70% des IDE
enregistrés du pays en 2008.
En outre, on constate un ralentissement de
l'augmentation du capital des projets en cours de
déploiement. En octobre, seulement 22 projets ont
demandé une augmentation du fonds, pour un montant total
de 169 millions de dollars, alors qu'au cours des 4 mois
précédents, il était d'environ 900 millions de dollars
(soit en moyenne 225 millions par mois).
Les IDE enregistrés au cours des 10 premiers mois de
l'année ont atteint près de 60 milliards de dollars.
Mais ils montrent des signes de ralentissement en
novembre et décembre. Selon les statistiques du
Département de l'investissement étranger, depuis
juillet, le nombre de projets et le montant des IDE
baissent de mois en mois. En octobre, le pays n'a
recensé que 68 projets ayant obtenu la licence. Pour la
première fois, la barre des 100 n'est pas franchie.
Au dire d'experts, les IDE ont atteint leur pic et la
baisse ne fera que se confirmer. En particulier, la
crise financière mondiale a des impacts directs sur
l'attraction des IDE du pays pour l'année suivante.
Néanmoins, selon un rapport annuel sur les
investissements 2008 des Nations unies, les IDE injectés
dans les pays en voie de développement seraient moins
influencés par la crise financière mondiale et l'Asie du
Sud-Est continue d'attirer les investisseurs.
Onze projets cumulant environ 45 milliards
de dollars d'IDE
1. Complexe d'aciérie, d'usine d'équipements électriques
et de port maritime dans la province de Ninh Thuân (9,79
milliards de dollars, Malaisie).
2. Complexe de ports maritimes et d'usine sidérurgique
dans la province de Hà Tinh (7,9 milliards de dollars,
Taïwan).
3. Raffinerie de Nghi Son, dans la province de Thanh Hoa
(6,2 milliards de dollars, Japon et Pays-Bas).
4. Complexe touristique haut de gamme dans la province
de Phu Yên (4,3 milliards de dollars, Brunei).
5. Zone touristique et de villégiatures de Hô Tràm dans
la province de Bà Ria-Vung Tàu (4,23 milliards de
dollars, Canada).
6. Complexe pétrochimique de Long Son dans la province
de Bà Ria-Vung Tàu
(4 milliards de dollars, Thaïlande).
7. Centre urbain et universitaire à Hô Chi Minh-Ville
(3,5 milliards de dollars, Malaisie).
8. Complexe de villégiatures et de terrain de golf à Phu
Quôc, dans la province de Kiên Giang (1,65 milliard de
dollars, Grande-Bretagne).
9. Centre de loisirs et d'hôtels à Vung Tàu (1,3
milliard de dollars, États-Unis).
10. Complexe d'hôtels, de bureaux à louer et d'usine de
logiciels à Hô Chi Minh-Ville (1,2 milliard de dollars,
Singapour).
11. Centre financier à Hô Chi Minh-Ville (930 millions
de dollars, Malaisie).
Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
đăng ký vào Việt Nam trong năm nay tăng gấp 3 lần cả năm
2007, trong đó các dự án khai thác dầu khí chiếm tỷ trọng lớn.
>
VN từ chối dự án thép gần 8 tỷ USD
Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư) cho hay, tính chung cả năm, lượng vốn FDI đạt 64,01 tỷ
USD, trong đó 60,2 tỷ USD là cấp mới. Số vốn kỷ lục của năm
2007 là 20,3 tỷ USD. Vốn giải ngân trong năm nay đạt 11,5 tỷ
USD.
Riêng trong tháng 12, lượng vốn cấp mới và
tăng vốn cho các dự án đang hoạt động là 3,9 tỷ USD. Vốn FDI
vào Việt Nam tăng mạnh trong năm nay nhờ hàng loạt dự án lớn,
trong đó lớn nhất là liên doanh thép của tập đoàn Lion
(Malaysia) và Vinashin với 9,79 tỷ USD. Những dự án lớn này
được cấp phép rải rác ngay từ đầu năm, dự án sau phá kỷ lục
vốn đăng ký của dự án trước, và dồn dập vào quý II-III. Đến
những tháng cuối năm, lượng vốn FDI đăng ký có xu hướng giảm
dần.
Công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong lượng vốn đăng ký, với gần 50%. Trong đó, các dự
án thăm dò và khai thác dầu tại Việt Nam thu hút 17,5% tổng
vốn FDI. Năm 2008 cũng chứng kiến một loạt dự án thép quy mô
lớn vào Việt Nam, và đến nay vẫn còn một vài nhà đầu tư nước
ngoài xếp hàng chờ được cấp phép. Lĩnh vực dịch vụ cũng chiếm
lượng vốn lớn, 47,3%, trong khi nông - lâm - ngư nghiệp chỉ
khoảng 3%.
Trong năm 2008, Malaysia lần đầu tiên trở
thành nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, với 14,9 tỷ USD, nhờ
dự án thép liên doanh giữa tập đoàn Lion với Vinashin gần 10
tỷ USD. Tiếp sau là Đài Loan và Nhật Bản. Hiện Ninh Thuận và
Bà Rịa - Vũng Tàu là 2 tỉnh thu hút nhiều vốn FDI nhất cả nước.
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu trong năm
2008
ND – Dưới đây là kết quả thực hiện các chỉ tiêu
chủ yếu trong năm 2008 so năm 2007, và dự kiến
các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã
hội trong năm 2009 so năm 2008 do Bộ Kế hoạch và
Ðầu tư công bố.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP): Tăng
6,23%
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản:
Tăng 5,6%
Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng:
Tăng 14,6%
Tổng mức bán lẻ và dịch vụ: Tăng 31%
Kim ngạch xuất khẩu: Tăng 29,5%
Kim ngạch nhập khẩu: Tăng 27,5%
Chỉ số giá tiêu dùng: Tăng 19,9 %
Bội chi NSNN trên GDP: Bằng 4,95%
Tỷ lệ sinh: Giảm 0,01%
Tỷ lệ hộ nghèo: Còn 13,1%
Tạo việc làm: 1,615 triệu người
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Ðầu tư)
* Dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu về
phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2009
so năm 2008
Tổng sản phẩm trong nước (GDP): Tăng khoảng
6,5%
Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp,
thủy sản: Tăng 2,8%
Giá trị tăng thêm khu vực công nghiệp, xây dựng:
Tăng 7,4%
Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ:
Tăng 7,3%
Tổng kim ngạch xuất khẩu: Tăng 13%
Chỉ số giá tiêu dùng: Tăng dưới 15%
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội:
Chiếm 39,5% GDP
Le Vietnam pourrait attirer cette année jusqu'à 65
milliards de dollars d'investissement direct étranger
(IDE). Le fonds décaissé serait de 11 milliards de
dollars, soit 37% de plus qu'en 2007, indique Phan Huu
Thang, chef du Département de l'investissement étranger,
relevant du ministère du Plan et de l'Investissement.
Le pays a recensé en novembre 106 nouveaux projets d'IDE,
pour 726 millions de dollars de fonds enregistré, soit 7
fois plus en montant qu'en novembre dernier. Le total
des IDE ces 11 derniers mois s'est élevé à 59 milliards
de dollars, en tenant compte de l'augmentation des fonds
des projets en activité.
En novembre, 950 millions de dollars ont été décaissés
pour la mise en œuvre de projets, portant le fonds
décaissé au cours des 11 premiers mois de l'année à 10
milliards, soit le montant prévu pour toute l'année et
une augmentation de 44,2% en glissement annuel.
Phan Huu Thang estime que le fonds décaissé devrait
s'élever à 12-13 milliards de dollars pour 2009, soit
entre 9% et 12% de plus qu'en 2008. Depuis le début de
l'année, l'industrie et le BTP ont attiré 512 projets,
d'un capital réuni de 32,5 milliards de dollars. Le
secteur tertiaire est en 2e place avec 400 projets et
25,5 milliards de dollars enregistrés, représentant
ainsi 42% du total des projets et 40% du montant. Pour
sa part, le secteur agro-sylvico-aquatique s'avère peu
attractif.
Parmi les grands projets, il faut citer celui d'aciérie,
lancé par le groupe malaisien Lion et son partenaire
vietnamien Vinashin. Implanté à Ninh Thuân (Centre),
l'ouvrage nécessiterait près de 9,8 milliards de dollars
d'investissement.
La Malaisie est à l'heure actuelle le premier des 44
pays et territoires investissant au Vietnam. Elle occupe
la première position en termes de montant des
investissements avec ses nouveaux 40 projets cumulant
14,8 milliards de dollars de capital social, précédant
ainsi Taïwan (122 projets pour 8,6 milliards). Le Japon
est 3e investisseur avec 90 projets, d'un fonds réuni de
7,2 milliards de dollars, représentant près de 13% du
total du fonds enregistré.
Fon octobre, Hanoi a recensé 1.400 projets d'IDE, d'un
fonds statutaire réuni de plus de 18 milliards de
dollars. La majorité des projets concernent le secteur
tertiaire et ceux de la finance et de l'immobilier.
La crise financière mondiale a-t-elle des effets
?
Selon M. Thang, la crise financière mondiale aura
l'année prochaine un impact inévitable sur l'attraction
des IDE. Les nouveaux projets seraient moins nombreux
que cette année, mais le montant devrait dépasser le cap
des 30 milliards de dollars grâce à de grands projets
dans le secteur des hautes technologies, prévoit-il. Les
infrastructures du pays (ouvrages d'électricité,
d'adduction en eau potable, routes, ports maritimes...)
seraient surchargées. Il est difficile que le réseau
d'infrastructures puisse satisfaire les exigences
qu'implique l'afflux de projets d'IDE qui sont en cours
de réalisation dans le pays.
Afin que les nouveaux projets puissent être mis en
oeuvre à la fin de 2008 et au début de 2009, il est
nécessaire d'appliquer le programme d'innovation commune
Vietnam-Japon (3e étape) relatif à l'amélioration de
l'environnement d'investissement. Il faut en même temps
perfectionner les textes législatifs sur
l'investissement étranger afin qu'ils répondent mieux
aux besoins actuels. Une coopération stricte entre
ministères, secteurs et localités est nécessaire pour
accélérer le rythme de décaissement des IDE, en
privilégiant tout particulièrement les grands projets
autorisés en 2006-2007.
Estimant les perspectives d'investissement au Vietnam,
Brett Krause, directeur général de Citigroupe Vietnam,
s'est déclaré convaincu que l'Asie-Pacifique, et
notamment le Vietnam, disposent de bonnes conditions de
développement économique à long terme. Mais dans
l'immédiat, le développement de l'économie nationale
pourrait être freiné à cause des fluctuations du marché,
souligne-t-il. "C'est une occasion pour nous de
renforcer nos activités commerciales par
l'intensification de nos investissements dans certains
secteurs plus propices", fait savoir Brett Krause. Selon
lui, le Vietnam ne devrait subir que peu d'influence de
la crise financière mondiale. Citigroupe Vietnam
continuera d'adapter ses activités à la nouvelle
conjoncture et d'améliorer leur rentabilité.
Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Nội
cho biết, mức thưởng Tết bình quân của các doanh nghiệp FDI
ở Hà Nội là 3,1 triệu đồng một người, tăng 1,5 lần so với
năm 2007. Thưởng thấp nhất là 300.000 đồng một người.
So với năm 2007, thu nhập bình quân của
lao động tại doanh nghiệp FDI giảm 12%, chỉ 2 triệu đồng một
tháng. Mức thu nhập thấp nhất của lao động tại khối này là 1
triệu đồng một tháng, đúng bằng mức lương tối thiểu vùng.
Mức thu nhập bình quân cao nhất ở khối
doanh nghiệp FDI Hà Nội là 32 triệu đồng một người một tháng,
thuộc về một doanh nghiệp chuyên sản xuất thiết bị điện tử.
Cuối năm, các doanh nghiệp phải
cân đối thu chi để trả thưởng Tết cho lao động. Ảnh
minh họa của Hoàng Hà.
Ở khối doanh
nghiệp nhà nước, thu nhập bình quân năm nay của lao động
tăng 1,4 lần so với năm 2007, với 2,5 triệu
đồng một tháng. Tuy nhiên, tiền tưởng Tết lại giảm 6%, trung
bình chỉ 1,1 triệu đồng. Nhiều nơi thưởng Tết chỉ vỏn vẹn
100.000 đồng một người.
Kỷ lục về mức thu nhập bình quân cao nhất
ở doanh nghiệp nhà nước là 20 triệu đồng một người một
tháng, thuộc công ty kinh doanh dịch vụ. Đây cũng là đơn vị
có mức thưởng Tết cao nhất với 30 triệu đồng một người.
Tại khối
doanh nghiệp dân doanh, nơi có số lao động đông đảo nhất, mức
thu nhập bình quân trong năm chỉ 1,5 triệu đồng một người một
tháng, giảm hơn 9% so với năm 2007. Mức thu
nhập thấp nhất chỉ 700.000 đồng, cao hơn lương tối thiểu
vùng 80.000 đồng.
Mức thu nhập bình quân cao nhất ở khu vực
doanh nghiệp dân doanh là 8 triệu đồng một người một tháng,
rơi vào một công ty viễn thông. Đơn vị này cũng có mức thưởng
Tết cao nhất, 5 triệu đồng một người.
Lương thấp, bù lại khối doanh nghiệp dân
doanh có mức thưởng Tết cao hơn cả doanh nghiệp nhà nước và
FDI, bình quân 4,1 triệu đồng một người, tăng 2,7 lần so với
năm 2007. Tuy nhiên, vẫn có nhiều doanh nghiệp mức thưởng Tết
chỉ 100.000 đồng.
Theo Sở Lao động Hà Nội, thống kê trên chỉ
là sơ bộ, bởi mới có 79 doanh nghiệp báo cáo kế hoạch lương
thưởng Tết. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn do suy thoái
kinh tế toàn cầu nên chưa có kế hoạch thưởng Tết.
Lương tối thiểu doanh nghiệp tăng thêm
110.000-200.000 đồng; Cước điện thoại cố định giảm hơn 70%;
Khung giá đất TP HCM tăng tới 100%; Người nước ngoài được
mua nhà tại VN... Đó là những quy định mới được áp dụng ngay
từ ngày đầu tiên của năm 2009.
Luật Thuế Thu nhập cá nhân từ 1/1/2009 quy định 10 loại
thu nhập sẽ bị chịu thuế. Trong đó có thu nhập tiền lương,
tiền công, đầu tư vốn, lợi tức cổ phần, chuyển nhượng vốn,
nhượng quyền thương mại, quà tặng, tiền thưởng và bản quyền
tác phẩm có giá trị vượt trên 10 triệu đồng.
Khoảng 15 triệu người sẽ được cấp
mã số thuế. Ảnh: Hoàng Hà.
Điểm quan trọng nhất của Luật là các vấn đề
liên quan tới khoản tiền giảm trừ cho chính đối tượng nộp
thuế với mức tối đa 4 triệu đồng một tháng (tương đương với
48 triệu đồng một năm) và 1,6 triệu đồng một tháng cho mỗi
cá nhân phụ thuộc như cha mẹ già, người tàn tật, vợ, con nhỏ
dưới 18 tuổi... Việc xác định người phụ thuộc chủ yếu dựa
trên các giấy tờ, hồ sơ đã có của người phụ thuộc như giấy
khai sinh, giấy đăng ký kết hôn, giấy xác nhận về tình trạng
sức khỏe, khả năng lao động... Đồng thời, cơ quan thuế sẽ
tính đến việc cấp mã số thuế cho tất cả cá nhân là người VN,
kể cả trẻ em mới chào đời. Căn cứ vào đó, cơ quan chức năng
sẽ thực hiện việc chiết trừ gia cảnh cho người nộp thuế.
Từ 1/1/2009 cước điện thoại cố định gọi
nội tỉnh và nội hạt sẽ thống nhất mức chung 200 đồng một
phút thay cho các mức cũ 120 đồng, 400 đồng và 700 đồng.
Cước thuê bao cũng áp dụng mức mới 20.000 đồng một tháng
thay cho mức cũ 27.000 đồng.
Theo cách tính mới này, cước các cuộc gọi
trong phạm vi nội hạt (các thuê bao trong cùng một quận
huyện) sẽ tăng khoảng 66%, tuy nhiên, cước liên lạc nội tỉnh
lại giảm từ 50% đến 71,4%. Theo tính toán của Bộ Thông tin
và Truyền thông, với lưu lượng cuộc gọi nội tỉnh bình quân
120 phút cho mỗi thuê bao một tháng như hiện tại thì doanh
nghiệp viễn thông sẽ gần như không tăng doanh thu khi áp
dụng phương án điều chỉnh mới.
Thị trường nhà đất chưa thoát cảnh
chợ chiều. Ảnh: Hoàng Hà.
Từ 1/1/2009, giá đất cao nhất trong khung
ở
Hà Nội là 67,5 triệu đồng, bằng mức trần quy định của
năm 2008. Riêng đất
ở TP HCM sẽ tăng mạnh từ mức cũ 67,5 triệu đồng của năm
2008 lên là 81 triệu đồng. Trong đó, giá đất trong hẻm vẫn
giữ nguyên, đất ở các tuyến đường tăng 10-100% tùy khu vực.
Quận 2 có giá đất tăng cao nhất với tỷ lệ trung bình 100% vì
được đổ nhiều vốn đầu tư hạ tầng. Kế đến là quận 7, Tân Bình
có tỷ lệ tăng giá 50-100% so với trước.
Theo giới chuyên môn, khung giá đất 2009 tại
TP HCM vẫn còn vênh trung bình 4-6 lần so với giá thị trường.
Đơn cử giá đất 3 tuyến đường Đồng Khởi, Lê Lợi, Nguyễn Huệ
là 81 triệu đồng mỗi m2 vẫn chênh lệch 3-4 lần so với giá trị
thực tế. Trên thị trường, đất các tuyến phố này có giá trung
bình 250-300 triệu đồng mỗi m2, thậm chí nhiều thời điểm còn
vượt mốc 300 triệu đồng.
Cạnh tranh trên thị trường bán lẻ
sẽ quyết liệt hơn. Ảnh: Hoàng Hà.
Theo cam kết WTO, từ ngày 1/1/2009, mọi hạn
chế đối với các công ty phân phối, bán lẻ 100% vốn nước
ngoài sẽ được dỡ bỏ. Tuy nhiên, trên cơ sở những hàng rào kỹ
thuật được phép áp dụng, Việt Nam chưa mở cửa thị trường bán
lẻ ngay lập tức các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu, dược
phẩm, sách báo. Các mặt hàng khác như sắt thép, xi măng,
phân bón sẽ lùi thời điểm mở cửa đến 3 năm sau.
Giới chuyên môn nhận định trong bối cảnh
hệ thống phân phối Việt Nam còn nhiều hạn chế, sự xuất hiện
của các đối thủ đến từ nước ngoài sẽ giúp thị trường phong
phú hơn, chuyên nghiệp hơn và người tiêu dùng có thêm nhiều
cơ hội lựa chọn. Nhưng với các nhà bán lẻ nội địa, sức ép
cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn.
Nghị quyết thí điểm cho người nước ngoài
mua nhà vừa được Văn phòng Chủ tịch Nước thông qua và có
hiệu lực từ 1/1/2009 cho phép người nước ngoài được sở hữu
nhà tối đa 50 năm.
Theo thống kê của Bộ Xây dựng, có ít nhất
10.000 người nằm trong diện đủ điều kiện mua nhà trong tổng
số khoảng 80.000 người nước ngoài làm ăn và sinh sống lâu
dài ở Việt Nam. Tính đến hết tháng 7/2008, người nước ngoài
thuê khoảng 1 triệu m2 nhà ở tại Việt Nam để sinh sống.
Trong đó TP HCM chiếm quá nửa với diện tích 660.000 m2
(tương đương 4.000 căn hộ) tập trung tại quận 1, 3, 5, 7
(khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng). Còn Hà Nội, có khoảng 1.300
căn hộ đang được người nước ngoài thuê với diện tích 220.000
m2, chủ yếu tại các quận Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Ba Đình.
Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới
có hiệu lực từ ngày 1/1/2009, các khoản thu nhập chịu thuế
gồm thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, hàng hóa
dịch vụ, chuyển nhượng vốn, bất động sản, cho thuê tài sản…
Thuế suất chung áp dụng cho các doanh nghiệp là 25% thay cho
mức cũ 28%. Các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu
khí có thuế suất từ 32% đến 50%, tùy vào từng dự án.
Đối với các khoản ưu đãi, luật thuế áp
dụng mức cao nhất là 10% trong vòng 15 năm, miễn thuế tối đa
không quá 4 năm và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo đối với
các doanh nghiệp mới thành lập, hoạt động trên địa bàn đặc
biệt khó khăn. Hằng năm, tất cả các doanh nghiệp được trích
10% thu nhập trước khi tính thuế để lập quỹ phát triển khoa
học và công nghệ.
Theo Luật Thuế VAT có hiệu lực từ 1/1/2009
quy định chi tiết từng mức thuế đối với từng đối tượng nằm
trong diện nộp thuế, gồm hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản
xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở VN... Trong đó, mức 0% được
áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế
và hàng hóa, trừ các hợp đồng chuyển giao công nghệ, chuyển
nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài, dịch vụ bảo hiểm…
Thuế suất 5% áp dụng đối với các loại hàng
hóa dịch vụ như nước sạch phục vụ sản xuất, sinh hoạt; phân
bón quặng để sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn chăn
nuôi gia súc gia cầm, thực phẩm tươi sống, thiết bị dụng cụ
y tế, máy móc chuyên dung phục vụ cho sản xuất nông nghiệp…
Mức 10% được áp dụng cho các loại hàng hóa dịch vụ còn lại.
Từ 1/1/2009, mức lương tối thiểu của 8
triệu lao động làm việc tại doanh nghiệp trong nước sẽ lần
lượt là: 800.000; 740.000; 690.000 và 650.000 đồng một
tháng, tăng từ 110.000 đến 180.000 đồng so với năm 2008. Mức
lương tối thiểu của hơn 1,5 triệu lao động làm việc tại
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lần lượt là:
1.200.000; 1.080.000; 950.000 và 920.000 đồng một tháng,
tăng từ 120.000 đến 200.000 đồng so với năm 2008.
8 triệu lao động làm việc ở doanh
nghiệp trong nước được tăng lương. Ảnh: Hoàng Hà.
Theo hướng dẫn của Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội, những người có mức lương ghi trong hợp đồng lao động
thấp hơn mức lương tối thiểu trên thì phải điều chỉnh cho bằng.
Những người có mức lương cao hơn thì doanh nghiệp và lao động
thoả thuận để điều chỉnh cho phù hợp.
Theo nghị định 127 của Chính phủ, công dân
Việt Nam có giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc
xác định thời hạn từ đủ 12 đến 36 tháng; hợp đồng lao động,
hợp đồng làm việc không xác định thời hạn sẽ được hưởng bảo
hiểm thất nghiệp. Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng
60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm
thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp.
Để nhận được trợ cấp, lao động phải hội đủ
3 điều kiện: đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên
trong vòng 24 tháng trước khi bị mất việc làm; đã đăng ký
với cơ quan lao động khi bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng
lao động và cuối cùng là lao động chưa tìm được việc sau 15
ngày, kể từ khi đăng ký với cơ quan lao động.
Với quy định như vậy, sớm nhất phải đầu
năm 2010 lao động thất nghiệp mới được hưởng trợ cấp. Trong
năm 2008, chủ yếu là doanh nghiệp đóng bảo hiểm thất nghiệp.
Le Japon à la prise de l'APD au Vietnam -
15/12/2008
Le gouvernement et le peuple vietnamiens font tout leur
possible pour impulser un "partenariat stratégique et
durable" avec le Japon. Ce pour "l'intérêt des peuples"
des 2 pays.
Telle est l'affirmation du Premier ministre Nguyên Tân
Dung, lors de sa rencontre avec l'ancien Premier
ministre du Japon, Fukuda Yasuo, le 13 décembre à Hanoi.
Le chef du gouvernement vietnamien a apprécié la
participation de Fukuda Yasuo à la Conférence
internationale sur la démographie et le développement,
tenue au Vietnam.
Fukuda Yasuo a affirmé que le Japon et le Vietnam
signeraient bientôt un accord de coopération économique
et que son pays accélérerait le déploiement de 3 grands
projets au Vietnam (chemin de fer, autoroute Nord-Sud et
zone de haute technologie Hoà Lac).
Concernant l'affaire du versement des pots de vin par
d'anciens responsables de la compagnie japonaise Pacific
Consultants Interna- tional (PCI), la fondation par les
2 pays du Comité d'établissement des règlements pour
prévenir et lutter contre la corruption a été jugée
comme "très nécessaire" par Fukuda Yasuo. Et d'affirmer
que le Japon continuera d'aviser pour redémarrer l'aide
publique au développement (APD) au Vietnam.
Le Premier ministre Nguyên Tân Dung a souligné la
détermination du Vietnam à lutter contre la corruption.
Le chef du gouvernement vietnamien et l'ancien Premier
ministre du Japon ont tous 2 estimé que les bonnes
relations bilatérales ne devaient pas être influencées
par cette affaire. Et qu'il est nécessaire aux 2 pays de
coopérer étroitement pour le règlement de cette affaire
et pour négocier la reprise des APD au Vietnam.
TT - “Công ty cấp nước không được quản lý dự án ODA về cấp
nước; công ty quản lý, duy tu đường thì không được quản
lý dự án về cầu đường mà lại giao cho một cơ quan hành
chính. Không chịu trách nhiệm đến cùng nên khó có trách
nhiệm tuyệt đối” - TS Dương Đức Ưng, cố vấn cao cấp -
nguyên vụ trưởng Vụ Kinh tế đối ngoại Bộ Kế hoạch và đầu
tư, nói về nguyên nhân xảy ra tình trạng tham nhũng
trong một số dự án viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Ông Ưng nói:
- Các nước đang phát triển đều phải huy
động nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó có ODA. Thực chất
ODA vừa là khoản vay, vừa là một công cụ chính trị của
nước đi nhận viện trợ. Vì vậy cách đàm phán, tiếp nhận
và tiêu tiền thế nào cần liên tục được đổi mới, cập nhật
để đạt hiệu quả cao nhất.
“Cây gậy và củ cà rốt”
* Thưa ông, có vẻ nhiều người không
quan tâm lắm đến việc chi tiêu ODA vì đó là tiền viện trợ.
Nhiều nơi còn cố xin bằng được ODA để có dự án.
- Viện trợ có hai mặt, bất kỳ khoản viện
trợ nào cũng vậy. Khi một nước đem tiền thuế của dân đi
cho hoặc cho nước khác vay với lãi suất rất ưu đãi thì
nó phải hàm chứa mục tiêu chính trị, có thể trần trụi,
kiểu “cây gậy và củ cà rốt” trước đây hoặc nhẹ nhàng hơn
tùy vào tình hình thế giới và tiềm lực của nước nhận viện
trợ.
Bản chất của viện trợ là khoản tiền thuế
của người dân nước đi viện trợ, nên tiền viện trợ phải
đem lại lợi ích trước mắt hay lâu dài cho nước đi viện
trợ. Như họ tài trợ các dự án đường sá, hạ tầng, hành
lang pháp lý... mục đích để các công ty của họ vào đầu
tư đạt hiệu quả cao nhất. Chưa hết, ODA đến, nước nhận
viện trợ cũng phải có vốn đối ứng để cùng thực thi dự án.
Vì vậy, trong dự án ODA ở VN bao giờ cũng có tiền thuế của
người dân VN. Nên nó hoàn toàn không phải “bình sữa ngọt”
từ bên ngoài đưa vào.
"Để một
anh đứng ra làm một công trình mà anh ta không
gắn bó với nó, không tâm huyết, xong việc rồi
thôi thì anh ta sẽ chỉ cố tìm dự án, tranh thủ
làm gì đó, thất thoát là khó tránh"
* Có chuyên gia cho rằng đôi khi dùng vốn ODA còn đắt
hơn cả vốn trong nước, ông nghĩ thế nào?
- Đúng vậy. Vì các nước viện trợ thường
đưa ra những nguyên tắc, ràng buộc. Ví dụ với khoản vay
thế này, ưu đãi như vậy thì phải thuê dịch vụ tư vấn của
họ, phải mua thiết bị của họ dù giá thiết bị đó đắt hơn
rất nhiều thiết bị trong nước. Bên cạnh đó, giải ngân
ODA ở VN đôi khi rất chậm, có công trình phải mất năm
năm, thậm chí mười năm mới xong. Tính hiệu quả kinh tế
lúc đó có thể đã không còn.
Vì vậy theo tôi, ODA là cần thiết trong
từng hoàn cảnh chứ không phải tất cả. Nhiều dự án nếu
dùng vốn trong nước sẽ rẻ hơn. Cần tránh tâm lý khát
vốn, tìm mọi cách xin ODA, có dự án, còn hiệu quả kinh
tế không quan tâm hoặc tính sau. Chính phủ đã ban hành
danh mục ưu tiên ODA. Nên thực hiện nghiêm từ trên
xuống, trong đó các bộ ngành phải làm gương.
* Như ông nói, tâm lý muốn ODA năm
sau cao hơn năm trước, nếu đạt thì nhìn nó như một thành
tích là không đúng?
- Không nước nào tài trợ nhiều cho một
quốc gia chính sách kém, đi ngược lại nguyện vọng người
dân. Nên vốn cam kết lớn phần nào thể hiện sự tin tưởng
vào chính sách hiện tại. Nhưng cam kết chỉ là trên giấy,
vấn đề là vốn thực hiện. ODA vào VN những năm qua trên
40 tỉ USD nhưng đến nay mới tiêu được một nửa, nghĩa là
vốn thực hiện khoảng 50%.
Không nên quá lạc quan vào con số cam
kết vì thành tích thực phải là những công trình cụ thể,
hiệu quả ra sao. Nếu ODA vào nhiều mà dùng không hiệu
quả, để xảy ra tham nhũng, cắt xén thì ODA sẽ tạo ra một
gánh nặng nợ nần cho thế hệ sau.
Nên xem lại cách rót tiền
Quan trọng nhất là phải có sự giám sát, cơ
chế công khai minh bạch và xử lý nghiêm. Trong
ảnh: công trình xây dựng hầm Thủ Thiêm và đại lộ
đông - tây đoạn Q.1, TP.HCM - Ảnh: Nguyễn Công
Thành
* Theo ông, cơ chế hiện tại phải sửa thế nào để tránh thất
thoát khi sử dụng ODA?
- Quan trọng nhất là phải có sự giám
sát, cơ chế công khai minh bạch và xử lý nghiêm. Nghị định
131 về quy chế quản lý và sử dụng ODA đã quy định rõ: nếu
để xảy ra tiêu cực ở ban quản lý, chủ đầu tư dự án ODA
thì cơ quan chủ quản phải chịu trách nhiệm chứ không thể
vô can. Nhưng có thể nói nếu nhìn những văn bản pháp quy
của VN hiện nay về ODA thì cơ chế đã khá chặt chẽ, sự
công khai minh bạch cũng đã rõ ràng.
Nhưng thực tế các thông tin về ODA vẫn
không đầy đủ cho những người cần biết nó. Phía Canada đã
thử nghiệm ở VN hình thức cho người dân trực tiếp giám
sát công trình ODA. Đó là dự án cơ sở hạ tầng nông thôn
tại Trà Vinh, người dân được quyền ra tận công trình
giám sát nên không mất một ký ximăng nào, đã triển khai
năm năm đến nay vẫn hiệu quả. Đây là cách làm rất tốt mà
chúng ta có thể tham khảo.
* Ngoài các giải pháp công khai
minh bạch đã được nói đến nhiều, để hạn chế thất thoát
từ dự án ODA, theo ông, có giải pháp đột phá là gì?
- Nhiều cơ quan hiện coi ODA như vốn
Chính phủ cho, nguồn vốn lại là từ viện trợ ưu đãi nên rất
thoải mái, có thì cứ làm chứ không quan niệm làm một
công trình phải phục vụ một lợi ích thiết thực. Nên vấn
đề quan trọng bây giờ, theo tôi, là phải giao tiền đúng
chỗ, tìm được người chủ đích thực cho ODA.
Người chủ đích thực là người thật sự
đang bức bối, cần những đồng vốn ODA. Khi nhận được ODA,
đồng tiền đó phải gắn bó chặt chẽ với cả quá trình làm
việc sau này của họ. Nếu hiệu quả của dự án sẽ ảnh hưởng
đến lương, thu nhập cả quá trình sau của anh ta thì anh
ta sẽ có trách nhiệm.
Rất tiếc hiện nhiều dự án không được
giao đúng chỗ. Công ty cấp nước không được quản lý dự án
ODA về cấp nước, công ty quản lý, duy tu đường cũng
không được quản lý các dự án ODA về cầu đường mà lại lập
ra cho một ban quản lý dự án - một cơ quan hành chính
làm. Làm xong họ chuyển giao, có khúc mắc gì họ kệ vì
phải làm việc khác. Một người viết dự án, người thực
hiện khác, người vận hành khác, một người duy tu bảo
dưỡng lại khác thì rất khó thành công trong những dự án
như vậy.
* Như thế vai trò của các bộ, UBND
phải giảm xuống?
- Để thực hiện điều này, chúng ta phải
làm rõ lại với nhà tài trợ. Họ nghĩ giao cho các bộ,
UBND làm thì khi có khó khăn gì sẽ được giải quyết
nhanh. Nhưng vấn đề không phải như vậy. Nếu chú trọng
hiệu quả, nên giao ODA cho những người sẽ phải tổ chức
thực hiện, sẽ phải vận hành và duy tu bảo dưỡng chính
sản phẩm của nguồn vốn ODA đó làm.
«Le gouvernement vietnamien est disposé à créer des
conditions favorables permettant aux entreprises
vietnamiennes et japonaises d'intensifier leur
coopération". C'est ce qu'a déclaré le vice-Premier
ministre Nguyên Sinh Hùng, en recevant le 2 mars à Hanoi
Hiroshi Shinozuma, président de la Ligue économique de
la région de Kansai (Japon), à la tête d'un groupe
d'hommes d'affaires japonais, venu depuis dimanche pour
une visite de 6 jours au Vietnam.
Il s'agit de la 2e plus importante ligue économique au
Japon qui regroupe 9 provinces composant la région de
Kansai dont Tokyo, Hyogo, Osaka, Nara..., après celle de
Keidaren. C'est également une organisation non lucrative
de 780 membres, pour l'essentiel des grandes entreprises
opérant dans les domaines de la finance, de la banque,
de l'électronique, de la mécanique et des technologies
de l'information.
Le chef adjoint du gouvernement vietnamien s'est
félicité de cette visite, et plus particulièrement
encore du fait qu'elle intervienne en une période de
récession mondiale, la qualifiant de "contribution au
renforcement et au développement des relations
économiques, commerciales et d'investissement" entre les
2 pays.
Pour sa part, Hiroshi Shinozuma a souligné que malgré
les difficultés résultant de l'actuelle crise économique
mondiale, les entreprises japonaises continuent de
s'orienter vers le marché vietnamien du fait qu'il
demeure toujours riche de potentiels. "La reprise des
aides publiques au développement (APD) au profit du
Vietnam manifeste la volonté du gouvernement japonais de
coopérer avec le Vietnam", a-il-ajouté.
Selon les résultats d'une récente enquête effectuée
auprès des sociétés japonaises en activité au Vietnam,
plusieurs d'entre elles restent optimistes au regard de
l'économie vietnamienne, se déclarant "convaincus" d'une
amélioration de l'environnement d'investissement du pays
dans le courant de cette année.
Đại sứ Nhật: 'Chúng tôi lấy làm tiếc về sự
cố hầm Thủ Thiêm'
Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Mitsuo Sakaba
cho biết, dự kiến cuối tháng 3, hai bên sẽ ký công hàm chính
thức nối lại ODA, sau khi thống nhất hàng loạt biện pháp
phòng ngừa tham nhũng trong quá trình xét thầu cũng như giám
sát dự án.
>
VN và Nhật thỏa thuận việc sử dụng ODA /
Vết nứt ở hầm Thủ Thiêm
Trong buổi trả lời phỏng vấn
VnExpress.net cuối tuần qua, ít ngày sau sự kiện Nhật
Bản tuyên bố nối lại viện trợ ODA, Đại sứ Sakaba dành nhiều
thời gian nói về trách nhiệm của hai phía trong vụ PCI và kỳ
vọng vào quyết tâm chống tham nhũng của Việt Nam.
- Đề nghị Đại sứ cho biết lý do nào
khiến Nhật Bản đi đến quyết định nối lại viện trợ ODA cho
Việt Nam?
- Kể từ khi quyết định ngưng các khoản vay
mới cho Việt Nam vào tháng 8/2008, chúng tôi đã dành nhiều
thời gian soạn thảo quy định mới về đấu thầu và lựa chọn
chuyên gia tư vấn trong những dự án sử dụng vốn ODA. Việt
Nam và Nhật Bản đã thành lập một ủy ban hỗn hợp cũng nhằm
mục đích này. Ủy ban đã soạn thảo một bản thỏa thuận với sự
ký kết của Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư (MPI) Võ Hồng Phúc
và Ngoại trưởng Nhật Bản.
Liên quan tới vụ việc của Công ty tư vấn
PCI, các quan chức cấp cao của công ty này đã bị bắt và xét
xử về hành vi hối lộ tại một số nước nhận ODA. Phía Việt Nam
cũng đã có những hành động tương tự nhằm tỏ rõ quyết tâm
chống tham nhũng.
Như vậy, hai bên đã thiết lập được cơ chế
chọn thầu tư vấn tại các dự án có vốn ODA từ Nhật và Chính
phủ Việt Nam thể hiện quyết tâm cao chống tham nhũng. Trước
đó, Chính phủ Việt Nam cũng quyết định thành lập các cơ quan
hỗ trợ cho quá trình xét thầu diễn ra một cách minh bạch. Vì
những lý do này, hôm 23/2, Ngoại trưởng Hirofumi Nakasone đã
nói với Bộ trưởng Võ Hồng Phúc rằng Chính phủ Nhật Bản sẽ
nối lại ODA cho Việt Nam.
Đại sứ Nhật Mitsuo Sakaba: "Tôi hy
vọng cuối tháng này, 2 bên có thể ký thỏa thuận về 4
dự án với tổng vốn 83,2 tỷ yen". Ảnh:
N.C.
Có 4 dự án bị đình lại sau vụ việc liên
quan đến PCI. Hiện đã đến lúc hai bên chuẩn bị cho việc ký
kết và triển khai các dự án này với tổng trị giá 83,2 tỷ
yen, tương đương khoảng 900 triệu USD. Tuy nhiên, sẽ cần hơn
một tháng để ký kết chính thức, vì chúng tôi phải chuẩn bị
hợp đồng cho cả hai Chính phủ thông qua, sau đó tôi sẽ là
người ký. Tôi hy vọng cuối tháng này, chúng ta có thể đặt
bút ký.
- Cùng ngày 23/2, website của Bộ Ngoại
giao Nhật đăng bản thỏa thuận của Ủy ban Hỗn hợp Việt-Nhật
về ngăn chặn tham nhũng, trong đó đề cập đến bên thứ ba khi
chọn thầu. Vai trò của bên thứ ba này là gì, thưa Đại sứ?
- Bên thứ ba này sẽ do Bộ Kế hoạch và Đầu
tư của Việt Nam lập ra.
Theo thỏa thuận của Ủy ban Hỗn hợp, nhân
sự của Trung tâm hỗ trợ mua sắm công của MPI sẽ tham gia vào
ủy ban xét thầu và trực tiếp xem xét hồ sơ thầu mà các công
ty gửi đến, với tư cách bên thứ ba. Công ty được chọn là đơn
vị được đánh giá cao nhất.
Tại các dự án ở TP HCM hiện nay, chỉ có
một cơ quan đánh giá dự án. Tuy nhiên sau bản thỏa thuận
này, để công bằng hơn, bên thứ ba sẽ có quyền tham gia vào
quá trình thẩm định thầu. Điều khoản này rất quan trọng.
Chúng tôi hy vọng bên thứ ba sẽ được tham gia càng sớm càng
tốt.
- Nhật Bản nối lại ODA cho Việt Nam
với điều kiện hai phía cùng tuân thủ các điều khoản mới cam
kết. Như vậy vẫn có khả năng ODA bị ngừng lại nếu hai bên
không thực hiện tròn trách nhiệm?
- Tôi không hy vọng điều này sẽ diễn ra.
Tôi tự tin rằng cả hai bên sẽ tuân thủ các cam kết. Tôi
không muốn nhìn thấy bất cứ scandal tham nhũng nào liên quan
đến ODA từ Nhật Bản nữa.
- Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản
(JICA) có kế hoạch tăng giám sát bằng cách đưa chuyên gia
vào tất cả dự án có giá trị trên 1 tỷ yen. Họ sẽ có vai trò
gì trong dự án?
- Có hai lĩnh vực mà họ tham gia. Đầu
tiên, cơ quan đấu thầu công khai của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
sẽ đóng vai trò như là một bên thứ ba tham gia vào quá trình
thẩm định. Cơ quan này sẽ cần nhiều nhân lực mới và họ cũng
cần được đào tạo thêm để chuẩn bị cho vai trò quan trọng của
họ trong dự án. Các chuyên gia từ JICA sẽ đào tạo những nhân
viên này.
Nhiệm vụ thứ hai của họ là công tác hậu kiểm,
và họ làm việc này sau khi nhà thầu đã được lựa chọn. Đây là
vai trò rất quan trọng của JICA và đảm bảo sự công bằng khi
chọn thầu.
- Trước đây,JICA cũng đã có
vai trò giám sát các dự án ODA tại Việt Nam, nhưng họ không
phát hiện ra vụ PCI cho đến khi mọi việc được hé lộ trong một
vụ khác tại Nhật. Ông đánh giá thế nào về khả năng giám sát
của JICA?
- Trước đây trong dự án ODA, tiền được
chuyển đến cho Ban quản lý dự án và họ có quyền lựa chọn nhà
thầu và tư vấn. Trước khi có bản thỏa thuận do Ủy ban Hỗn hợp
soạn thảo, JICA không tham gia vào việc chọn thầu tại các dự
án. Từ nay, với thỏa thuận mới này, JICA có nhiều quyền hạn
hơn trong việc tham gia dự án và kiểm tra các khâu.
- Có vài ý kiến cho rằng nhà thầu Nhật
Bản chịu áp lực khi tham gia dự án liên quan đến nguồn vốn
ODA tại Việt Nam, và rằng PCI không phải là trường hợp duy
nhất. Ông bình luận gì về việc này?
- Tôi không có thông tin nào về một vụ việc
khác tương tự PCI. Chúng tôi sẵn sàng chia sẻ thông tin kịp
thời nếu có liên quan đến nguồn vốn ODA Nhật Bản. Trong
tương lai, tôi hy vọng phía Việt Nam sẽ chia sẻ thông tin với
Nhật Bản. Chính phủ Việt Nam đã thể hiện quyết tâm rất cao,
nên tôi hy vọng những vụ tương tự không còn tái diễn.
- Các công tyNhật đã trúng
thầu tại các dự án Việt Nam sử dụng nguồn vốn ODA từ chính
Nhật Bản. Tại một vài dự án vẫn có sự cố kỹ thuật, ví dụ như
các vết nứt ở hầm Thủ Thiêm trong dự án Đại lộ Đông Tây. Ông
nghĩ sao về việc này?
- Thông thường các trường hợp như tại hầm
Thủ Thiêm ít khi xảy ra ở Nhật và các chuyên gia đang kiểm
tra nguyên nhân sự cố để làm việc tốt hơn trong những lần
sau. Chúng tôi rất tiếc về sự việc trên.
Tôi không có ý bảo vệ các nhà thầu Nhật Bản,
nhưng cũng phải nói rằng điều kiện làm việc ở Nhật Bản và Việt
Nam khác nhau. Khí hậu và các vật liệu xây dựng, như xi măng,
cũng khác nhau. Điều quan trọng là tìm ra nguyên nhân và khắc
phục, để sự việc tương tự không xảy ra lần nữa.
Trong 3 tháng kể từ khi Nhật Bản
thông báo tạm ngừng ODA mới cho các dự án tại Việt
Nam, hai bên đã có nhiều bước đi nhằm sớm nối lại
nguồn vốn.
Chỉ vài ngày sau khi Nhật đưa ra
thông báo này, vụ án liên quan đến PCI đã được phía
Việt Nam khởi tố. Trong chuyến thăm tới Việt Nam vào
giữa tháng 12/2008, cựu thủ tướng Nhật Yasuo Fukuda
đã bày tỏ mong muốn hai bên sớm thiết lập cơ chế sử
dụng vốn ODA tại các dự án, để Nhật có thể nối lại
nguồn vốn này cho Việt Nam.
Ngày 23/2, Ngoại trưởng Nhật Bản
Nakasone tuyên bố Chính phủ nước này sẽ nối lại ODA
cho Việt Nam, trong chuyến thăm của Bộ trưởng Kế
hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc tới Nhật, với tư cách
Đặc phái viên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Cùng
ngày, website của Bộ Ngoại giao Nhật Bản đăng tải
bản thỏa thuận giữa Việt Nam và Nhật Bản về phòng
chống tham nhũng trong các dự án sử dụng nguồn vốn
ODA Nhật Bản, do Bộ trưởng Võ Hồng Phúc và Ngoại
trưởng Nakasone ký.
Hiện Nhật Bản là một trong những
nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Tại Hội nghị
nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2007,
Nhật Bản cam kết số vốn tài trợ ODA cho Việt Nam năm
2008 là 1,11 tỷ USD, chỉ sau Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB). Theo Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật
Bản JBIC, Việt Nam là một trong ba điểm rót vốn quan
trọng nhất của Nhật Bản, sau Ấn Độ và Indonesia.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và cựu Thủ tướng
Nhật Yasuo Fukuda cho rằng, vụ án liên quan đến PCI cần sớm
xử lý, tạo điều kiện cho 2 bên thỏa thuận khôi phục vốn vay
ODA của nước này cho Việt Nam.
>
Khởi tố vụ hối lộ liên quan đến PCI /
Nhật tạm ngừng ODA cho VN
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp
cựu Thủ tướng Nhật Yasuo Fukuda hôm 13/12. Ảnh:
website Chính phủ
Tại cuộc tiếp ông Yasuo Fukuda sang thăm Việt Nam và dự
Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển hôm 13/12, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ mong muốn bằng uy tín của
mình, cựu Thủ tướng Nhật sẽ đóng góp tích cực để thời
gian tới hai nước sớm ký kết hiệp định đối tác kinh tế.
Cùng với đó là thỏa thuận khôi phục lại vốn vay ODA và
tăng cường hợp tác có hiệu quả vì lợi ích chung.
Thủ tướng cho rằng, vừa qua việc phía Nhật
đơn phương tuyên bố ngừng cấp vốn ODA ưu đãi cho Việt Nam đã
gây ảnh hưởng không tốt trong dư luận và quan hệ giữa hai nước.
Người đứng đầu Chính phủ và ông Fukuda khẳng
định, vụ án liên quan tới việc sử dụng vốn ODA của Công
ty Tư vấn quốc tế Thái Bình Dương (PCI) cần sớm được xử lý
và cả 2 nước phải phối hợp tích cực để xử lý nghiêm minh. Giải
quyết dứt điểm vụ việc cũng là bảo vệ quan hệ đang phát triển
tốt giữa hai nước, đồng thời cho thấy việc quản lý ODA cần
chặt chẽ hơn để ngăn ngừa tiêu cực.
Hiện Nhật Bản là nhà đầu tư trực tiếp lớn
nhất tại Việt Nam. Trong 2 năm 2007-2008, kim ngạch thương mại
hai chiều lần lượt tăng 23% và 40%. Hiện Nhật cũng nhà tài
trợ vốn ODA lớn nhất và hiệu quả tại Việt Nam. Theo Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, những dự án mà Nhật hợp tác với Việt Nam
không những củng cố quan hệ của hai nước, mà còn góp phần
nâng cao vai trò của Nhật đối với khu vực.
Cựu Thủ tướng Nhật Yasuo Fukuda cũng khẳng
định, quan hệ hợp tác giữa hai nước phát triển tốt đẹp, thể
hiện qua việc tổ chức kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại
giao Việt-Nhật. Ngoài 3 dự án lớn gồm Đường cao tốc Bắc- Nam,
Đường sắt Bắc-Nam, Khu công nghệ cao Láng- Hòa Lạc đang được
Chính phủ Nhật Bản triển khai, thời gian qua hai nước đã hợp
tác khá hiệu quả trên nhiều lĩnh vực song phương và đa
phương.
Nếu Nhật tiếp tục tài trợ, ODA có thể vượt 6 tỷ USD
Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG) bế
mạc chiều nay với số vốn cam kết 5,014 tỷ USD, thấp hơn năm
ngoái gần 400 triệu USD. Đúng như tuyên bố hôm qua, phía Nhật
Bản không dành vốn ODA cho Việt Nam năm 2009.
>
Thủ tướng: 'Việt Nam luôn trân trọng từng đồng vốn ODA'
Đại sứ Nhật Bản đã rời hội nghị CG từ sáng
nay, sau khi đưa ra
tuyên bố tạm ngừng mọi dự án ODA mới có lãi suất ưu đãi
cho Việt Nam tới khi có kết luận cuối cùng về nghi án hối lộ
của Công ty Tư vấn quốc tế Thái Bình Dương (PCI).
Tại phiên bế mạc hội nghị chiều nay, Bộ
trưởng Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc cho biết Việt Nam lấy
làm tiếc vì Nhật Bản tuyên bố ngừng các dự án ODA mới ở Việt
Nam. Theo ông, nếu không có sự cố này, cam kết ODA dành cho
Việt Nam có thể vượt 6 tỷ USD.
"Việt Nam cảm ơn Đại sứ Nhật Bản đã có
tuyên bố về vấn đề này. Hiện nay, Nhật Bản vẫn là đối tác lớn
của Việt Nam. Việt Nam hy vọng Ủy ban hỗn hợp của hai bên sẽ
hợp tác chặt chẽ để giải quyết những vấn đề đang cản trở ODA
của Nhật cho Việt Nam. Hy vọng Ủy ban sẽ làm việc sớm có kết
quả để tôi và ngài Đại sứ có thể sớm ký công hàm về ODA của
Nhật Bản dành cho Việt Nam vào đầu năm 2009", ông Phúc nhấn
mạnh.
Bộ trưởng Võ Hồng Phúc, Phó chủ tịch
WB James Adams và Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam
Ayumi Konishi tại buổi họp báo kết thúc hội nghị CG
chiều nay. Ảnh: N.C.
Ông Phúc cho biết thêm Việt Nam cam kết
hành động để công cuộc chống tham nhũng thành công, nếu
không, sẽ ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế cũng như công bằng
xã hội. Chống tham nhũng và nâng cao tính minh bạch là một
trong những nội dung được đề cập nhiều nhất trong tuyên bố tại
hội nghị của các nhà tài trợ.
Ngoài sự cố Nhật Bản tạm ngưng cấp vốn vay
ưu đãi, lượng ODA mà các nhà
tài trợ khác cam kết cho Việt Nam năm 2009 là khả quan
khi xét tới điều kiện kinh tế thế giới đang suy thoái như hiện
nay. Phần lớn các đối tác đều tăng mức cam kết. Trong tổng vốn
5,014 tỷ USD, Ngân hàng Thế giới (WB) cam kết lớn nhất với
1,66 tỷ USD. ADB cam kết 1,566 tỷ USD, tăng hơn 200 triệu
USD. Riêng EU giảm cam kết gần 70 triệu USD xuống còn 893,4
triệu USD.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: "Việt
Nam trân trọng từng đồng vốn ODA". Ảnh: Ngọc
Châu.
Sau 2 ngày bàn thảo với các nhà tài trợ, Bộ
trưởng Võ Hồng Phúc cũng nhận xét hội nghị lần này thành
công và con số trên 5 tỷ USD mà các nhà tài trợ cam kết cho
Việt Nam là lớn. Ông Phúc cũng tái khẳng định cam kết của Việt
Nam sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay.
Tuyên bố của các nhà tài trợ cho Việt Nam
trong năm nay dành nhiều sự chú ý cho việc duy trì ổn định
kinh tế vĩ mô. Ông Ayumi Konishi, Giám đốc quốc gia của Ngân
hàng Phát triển Châu Á nhấn mạnh: "Chúng tôi hy vọng Chính
phủ sẽ giám sát chặt tình hình, cẩn trọng phân tích và cân đối
rủi ro. Chúng tôi đặc biệt quan ngại về ảnh hưởng tiêu cực đến
người nghèo, đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và những người
dễ bị tổn thương".
Đại diện của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
Shogo Ishii lưu ý Việt Nam cần cẩn trọng khi đặt ra các mục
tiêu cho năm 2009, đặc biệt là tăng trưởng và đầu tư. Cùng với
đó là đưa ra chính sách kinh tế phù hợp và có tính đến với
các rủi ro bên ngoài.
Bộ trưởng Võ Hồng Phúc tái khẳng định,
Chính phủ Việt Nam sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết với các
nhà tài trợ, đảm bảo hệ thống ngân hàng và tài chính hoạt động
tốt, giảm nhập siêu và giữ vững cán cân thanh toán quốc tế
trong năm 2009.
La conférence 2008 du groupe consultatif des bailleurs
de fonds du Vietnam (CG-2008) s'est clôturée le 5
décembre après-midi à Hanoi, avec 5,014 milliards de
dollars d'engagements de la part des commanditaires
internationaux (contre 5,4 milliards en 2007).
La Banque mondiale (BM) a promis d'accorder au Vietnam
1,66 milliard de dollars, la Banque asiatique pour le
développement (BAD), 1,566 milliard pour 2009 contre
1,35 milliard en 2008. D'autres bailleurs de fonds ont
également augmenté leurs engagements. Mais l'Union
européenne (UE) en a réduit à 893,48 millions de
dollars, contre 962,8 millions de dollars pour 2008.
Ainsi, la BM et la BAD sont les 2 premiers fournisseurs
d'aide publique au développement (APD) au Vietnam.
Dans son allocution de clôture, le vice-président de la
BM pour l'Asie de l'Est et le Pacifique, James Adams,
s'est déclaré "convaincu" que le gouvernement vietnamien
continuerait ses efforts de réforme socioéconomique. Il
s'est engagé à "intensifier l'efficacité de la
coopération" et à "maximaliser" l'assistance des
donateurs internationaux pour le Vietnam.
Au nom du gouvernement, le ministre du Plan et de
l'Investissement, Vo Hông Phuc, a remercié les bailleurs
de fonds de continuer leur soutien au Vietnam. Il a
souhaité que ces derniers puissent matérialiser au plus
tôt leurs engagements par des accords de coopération
bilatérale et multilatérale et s'est engagé que le
Vietnam utiliserait efficacement l'APD. À son avis, dans
la conjoncture actuelle de crise économique mondiale, le
chiffre de plus de 5 milliards de dollars témoigne des
efforts et de la confiance des donateurs envers le
processus de réforme et de développement du Vietnam.
Cependant, M. Phuc a exprimé ses regrets de ne pas voir
l'engagement du Japon. Ce pays avait réaffirmé que le
Vietnam restait sa priorité en termes d'aide au
développement et s'intéressait toujours aux programmes
de développement au Vietnam, a-t-il ajouté. Et d'espérer
que les 2 parties collaborent étroitement pour régler au
plus tôt les problèmes dans ce domaine. Il a souhaité
rencontrer début 2009 l'ambassadeur japonais à Hanoi
pour signer une note diplomatique sur l'APD en faveur du
Vietnam.
La partie japonaise avait annoncé la suspension de 3
projets bénéficiaires de l'APD (exercice financier de
2008), réunissant 65 milliards de yens. Il s'agit du
système d'évacuation des eaux à Hanoi(deuxième étape),
de la protection de l'environnement urbain à Hai Phong
et de la construction du métro à Hanoi.
Perspectives sur le long terme
Selon le directeur national de la BAD au Vietnam, Ayumi
Konishi, si le Vietnam maintient un développement
socio-économique continu à travers sa réforme, le pays
aura un bel avenir. Cependant, dans un avenir proche, le
Vietnam devrait connaître de sérieux problèmes, dus aux
impacts de la crise de l'économie mondiale, en ce qui
concerne les exportations, l'investissement direct
étranger, le nombre de touristes étrangers et le montant
des devises reçues par le pays. Il a également
recommandé au Vietnam de se concentrer sur la stabilité
macroéconomique. À son avis, bien que l'inflation
globale soit réduite, les menaces d'inflation demeurent
encore.
Quant au conseiller en chef de la Délégation de la
Commission européenne à Hanoi, Willy Vandenberg, il a
déclaré que le pays devrait se focaliser sur la qualité
de la croissance et de l'investissement. Il a qualifié
les investissements industriels durables dans
l'environnement de "bons investissements sur le long
terme". Selon lui, le Vietnam dispose d'un énorme
potentiel touristique, ce qui implique de préserver la
culture nationale et les ressources naturelles. Il a
constaté que la gestion économique au Vietnam avait
connu ces derniers temps des progrès. Une des tâches est
de renforcer la transparence financière de toutes les
composantes économiques, a-t-il proposé. Et de faire
remarquer que l'accélération de l'actionnarisation
permettrait au gouvernement de mobiliser les ressources
nécessaires au développement des infrastructures ainsi
qu'aux services sociaux dans les domaines de la santé et
de l'éducation. "Le Vietnam est sur la voie pour devenir
un pays industrialisé dans l'avenir grâce à la
croissance de son secteur privé et à une intégration
plus profonde à l'économie mondiale avec les accords de
libre-échange, tel que celui actuellement en négociation
avec l'Union européenne", a-t-il affirmé.
Les représentants de gouvernements et de la communauté
des bailleurs de fonds ont réservé une grande partie du
temps à analyser la situation socioéconomique, les
dernières mesures prises par le gouvernement vietnamien
dans la matérialisation des programmes anti-pauvreté,
l'harmonisation des formalités et la réforme
institutionnelle, l'élévation de l'efficacité des aides.
Ils sont arrivés à un consensus de continuer à discuter
du rôle de la presse dans la lutte contre la corruption.
Ils ont salué la décision du Vietnam sur la future
rectification de l'accord des Nations unies sur la lutte
contre ce fléau et sur l'élaboration du programme
national de prévention contre le changement climatique.
HCM
CITY — Despite the negative impacts of the
global economic crisis, remittances from
overseas to HCM City this year have
increased steadily. In the past 11 months,
they have reached US$4.5 billion, said Ho
Huu Hanh, director of the State Bank of Viet
Nam’s HCM City branch.
The
$4.5 billion was sent through the banking
system, and the World Bank estimates Viet
Nam will receive $5.5 billion by the end of
the year.
Hanh
attributed the increased inflow to the fact
that the interest rate for US dollars held
in Vietnamese banks is higher than in the
US.
The
deposit interest rate applied by the US
Federal Reserve is only 1 per cent a year
compared to 5 - 5.5 per cent for a 12-month
term offered by Vietnamese banks.
Moreover, the deposit interest rate for the
dong is still around 12 per cent, down from
a peak rate of 18 to 21 per cent in
September and October.
This
high interest rate has attracted Vietnamese
nationals abroad to send money to their
relatives at home for savings. The
remittances are changed into dong or kept in
US dollars for deposits in local banks.
Additionally, overseas Vietnamese have been
sending remittances targeting investments,
such as the stock exchange and real-estate
market, both of which are showing signs of
revival.
Hanh
added that the exchange rate between the US
dollar and Vietnamese dong would stabilise
over the next few months. He said the State
Bank of Viet Nam would impose a flexible
management policy concerning foreign
currencies.
He
said it would also closely monitor changes
in the money market to make prompt and
proper adjustments to curb sudden price
hikes in the foreign currency exchange rate,
especially the US dollar. — VNS
Sau khi báo chí phản ảnh những sai phạm
trong cấp phát tiền hỗ trợ Tết Kỷ Sửu cho người nghèo, liên
bộ Tài chính - Lao động Thương binh Xã hội đã lập các đoàn
thanh tra tại các địa phương. Tại phiên họp thường kỳ Chính
phủ (2-3/3), vấn đề này đã được báo cáo Thủ tướng.
Nửa tháng sau Tết, người dân nghèo
ở bản Coóng, Quế Phong (Nghệ An) vẫn chưa nhận được
tiền hỗ trợ của Chính phủ. Ảnh: Nguyễn Khoa.
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Công
Nghiệp, tới cuối tháng 2, tổng kinh phí các địa phương thực
chi gần 1.700 tỷ đồng và cơ bản được thực hiện tốt. Tuy
nhiên, một số địa phương đã xuất hiện những sai phạm như
chia bình quân cho các hộ trong thôn; số tiền hỗ trợ thấp
hơn so với quy định, chi không đúng mục đích...
Ông Nghiệp cho biết, hiện những địa phương
có sai phạm đã tiến hành thu hồi số tiền cấp sai, hoàn trả
những khoản chưa cấp cho các hộ nghèo.
Theo Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính
phủ Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng vừa chỉ đạo xử lý nghiêm sai
phạm, kể cả trường hợp sử dụng tiền hỗ trợ Tết để xây dựng
công trình công cộng như nhà văn hóa.
Với các cán bộ tham ô
tiền hỗ trợ Tết sẽ xem xét xử lý hình sự .
Phiên họp thường kỳ Chính phủ. Ảnh:
Chinhphu.vn
Theo ông Phúc, tại phiên họp thường kỳ
Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định, kinh tế
tháng 2 đã có chuyển biến tích cực, kinh tế vĩ mô trong nước
cơ bản ổn định, gói kích cầu bước đầu đi vào cuộc sống, nhận
được đồng thuận của toàn xã hội.
"Tuy nhiên, Thủ tướng cũng lưu ý, phải quyết
liệt phòng chống tham nhũng, không để gói kích cầu kinh tế bị
lợi dụng", ông Phúc nói.
Người đứng đầu Chính phủ cũng nhấn mạnh, để
tích cực chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, phục hồi tăng
trưởng, ngay trong năm 2009 phải đẩy nhanh việc giải ngân sử
dụng 300.000 tỷ đồng từ ngân sách, ưu tiên đầu tư cho hạ tầng,
xuất khẩu, các công trình phục vụ an sinh xã hội.
Nội dung trao đổi với VnExpress.net
bên hành lang Quốc hội sáng nay cho thấy sự cập nhật và thay
đổi đáng kể trong quan điểm, cách đánh giá của Bộ trưởng Võ
Hồng Phúc về tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
tới tình hình kinh tế Việt Nam.
>
Có thể điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng xuống 6,7%
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư
Võ Hồng Phúc. Ảnh: Hoàng Hà.
- Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hôm qua tiết lộ thông tin
có thể điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng năm nay và năm
sau. Là cơ quan tham mưu cho Chính phủ về kế hoạch và dự
báo, ông có thể cho biết rõ hơn về điều này?
- Tại cuộc họp kéo dài cả ngày 1/11, Chính
phủ đã bàn rất kỹ về chỉ tiêu tăng trưởng của 2008 và 2009.
Tình hình kinh tế thế giới đang rất khó khăn, và sẽ tác động
tới một số lĩnh vực của Việt Nam như xuất khẩu, thu hút đầu
tư cả trực tiếp và gián tiếp. Thị trường tài chính cũng bị
ảnh hưởng nhất định.
Khả năng năm nay chúng ta vẫn có thể tăng
trưởng 6,5-7% như đã báo cáo Quốc hội. Con số cụ thể thì Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đề xuất 6,7%. Hiện chưa đủ điều kiện để
nói rằng nền kinh tế đã giảm phát. Song có những biểu hiện
kinh tế tăng chậm lại và mầm mống của sự suy giảm. Vì vậy
Chính phủ đang trình Quốc hội cho điều chỉnh lại. Trước đây
mục tiêu tổng quát là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bảo đảm tốt
hơn an sinh xã hội. Nay chúng ta bỏ chữ ưu tiên vì lạm phát
bước đầu đã được kiểm soát, và đổi thành tiếp tục kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế hợp
lý bền vững. Cuối ý này có thêm cụm từ
ngăn ngừa suy giảm. Nhất
thiết phải có thêm biện pháp ngăn ngừa suy giảm. Mục tiêu an
sinh xã hội cũng điều chỉnh lại so với lần trình Quốc hội
trước đây.
Chính phủ cũng xem xét lại khả năng tăng
trưởng kinh tế trong 2009. Trước đây, Chính phủ trình 3
phương án, phương án một khoảng 7%. Phương án hai, nếu tốt
hơn sẽ vào khoảng 7,5%. Phương án ba, nếu xấu đi khoảng
6,5%. Sau khi phân tích tình hình, thấy kinh tế thế giới
ngày càng xấu đi, và khả năng tăng trưởng kinh tế thế giới
sẽ thấp hơn nhiều năm 2008, Chính phủ trình phương án tăng
trưởng 6,5% cho năm tới.
- Như vậy đã có những thay đổi đáng kể
trong việc đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
thế giới đối với Việt Nam?
- Đã có sự thay đổi. Trước đây chúng ta
đánh giá lạm phát là yếu tố hàng đầu, tác động lớn tới nền
kinh tế trong 2008 và cả 2009. Giờ đây, khả năng giảm phát
của nền kinh tế thế giới sẽ tác động tới Việt Nam. Do vậy
phải điều chỉnh lại. Lạm phát không còn là nhiệm vụ ưu tiên,
mà chúng ta chỉ tiếp tục kiềm chế để đảm bảo lạm phát không
trở lại. Nhưng phải chú ý đặc biệt tới vấn đề phòng ngừa khả
năng giảm phát của nền kinh tế.
- Nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng cơ
quan tham mưu của Chính phủ đã dự báo kém nên có phần bị
động?
- Không thể nói bị động và cũng đừng nên
quy trách nhiệm ai cả. Cả thế giới dự báo kém. Năm 2008 là
năm khó lường, mọi sự kiện kinh tế đều khó lường. Các nhà
kinh tế giỏi nhất của World Bank, ADB hay IMF và ngay cả ông
Alan Greenspan, phù thủy nền kinh tế Mỹ, cũng nói rằng tất
cả mọi việc đều rất bất ngờ và không thể dự báo nổi.
- Cách đây một vài tuần Bộ Kế hoạch và
Đầu tư có đánh giá là cuộc khủng hoảng tài chính
tác động không nhiều tới Việt Nam. Nay tại sao lại có
những thay đổi trong cách đánh giá để dẫn tới việc điều
chỉnh mục tiêu tăng trưởng?
- Trước đây cuộc khủng hoảng mới dừng ở
lĩnh vực tài chính, và ít ảnh hưởng tới Việt Nam. Nhưng bây
giờ đã lan rộng thành khủng hoảng kinh tế. Một khi kinh tế
toàn cầu suy giảm, những thị trường xuất khẩu lớn của chúng
ta như Mỹ, Nhật Bản, EU và một số khu vực có nguy cơ bị thu
hẹp. Thu hút đầu tư, cả gián tiếp và trực tiếp của chúng ta
cũng vì thế mà giảm. Cho nên chúng ta phải có sự điều chỉnh
phù hợp và thích ứng với tình hình. Chúng tôi cho rằng tình
hình kinh tế còn diễn biến phức tạp, cần thường xuyên theo
dõi để có những đối sách phù hợp.
Bộ
trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh: "Điều
chỉnh chính sách thuế một cách linh hoạt để hỗ
trợ doanh nghiệp".
"Giải pháp quan trọng nhất vẫn
là điều hành lãi suất và tỷ giá. Lãi suất giảm sẽ
tạo điều kiện sản xuất kinh doanh tốt hơn. Bên cạnh
đó là các giải pháp tài chính. Phải điều hành
chính sách thuế một cách linh hoạt để tạo điều
kiện cho doanh nghiệp. Làm sao cho cân đối cung
cầu hàng hóa, kiểm soát lạm phát, kiểm soát nhập
khẩu, hỗ trợ sản xuất trong nước nhưng phải
trong phạm vi phù hợp với quy định của Tổ chức
Thương mại Thế giới.
Có thể xem xét giãn thuế cho
doanh nghiệp. Với những trường hợp quá khó khăn,
Chính phủ đang xem xét trình Quốc hội có thể giảm
một phần thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính phủ
đã đề nghị Quốc hội được điều hành một cách linh
hoạt. Nếu như tác động lớn quá, mạnh quá mức giảm
phải lớn. Nếu tác động vừa phải thì mức giảm vừa
phải. Thời gian giảm thuế cũng cần được cân nhắc
một cách phù hợp".
- Chính phủ dự kiến đưa ra những biện pháp nào để ngăn
ngừa suy giảm trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn
cầu?
- Phải kích thích sản xuất trong nước,
hướng vào nội nhu cùng với việc mở rộng thị trường xuất
khẩu. Trước đây chúng ta chú trọng nhiều tới hoạt động xuất
khẩu. Nhưng bây giờ cạnh xuất khẩu, phải chú ý nội nhu, kích
thích tiêu dùng của nhân dân. Đồng thời tìm mọi biện pháp hỗ
trợ doanh nghiệp. Ngay từ hôm qua, Ngân hàng Nhà nước đã
thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tiếp tục hạ lãi suất cơ bản,
tạo điều kiện cho các ngân hàng hạ lãi suất huy động, lãi
suất cho vay.
Trong trường hợp khó khăn của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ngày càng lớn, sẽ tính tới chuyện trình
Quốc hội cho giảm hoặc miễn thuế ở một số lĩnh vực.
- Trong bối cảnh khó khăn như vậy,
chính sách tài khóa sẽ thay đổi như thế nào?
- Chúng ta sẽ thực hiện chính sách tài
khóa tốt hơn, đặc biệt là chi tiêu ngân sách nhà nước, kể cả
ở khu vực tự lực. Chi đầu tư vốn đầu tư cũng sẽ giảm đi cùng
với sự suy giảm của ngân sách, do nguồn thu giảm. Sẽ cắt
giảm toàn bộ, kể cả những khoản hỗ trợ cho các doanh nghiệp
nhà nước thuộc mảng kinh doanh. Chẳng hạn hỗ trợ Tổng công
ty Dầu khí sẽ giảm đi vì nguồn thu từ dầu thô giảm. Dự tính
chi ngân sách và chi đầu tư sẽ giảm khoảng 6.000 tỷ đồng.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước đang làm một
số công trình hạ tầng phục vụ an sinh xã hội, phục vụ đời
sống của người dân như Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, Tổng
công ty Hàng hải Việt Nam, vẫn phải hỗ trợ để làm cảng biển,
cải tạo nâng cấp hệ thống đường sắt. Nhưng chi đầu tư cho
các công trình này sẽ được bù đắp từ nguồn trái phiếu Chính
phủ.
Sẽ chú ý hơn nữa tới giải ngân, làm sao
giải ngân nguồn vốn ngân sách, trái phiếu Chính phủ tốt hơn.
Có như vậy mới tạo dựng cơ sở hạ tầng, vừa tạo công ăn việc
làm đồng thời tiêu thụ một số mặt hàng sản xuất trong nước
như sắt thép, xi măng, đá cát sỏi, qua đó kích cầu nội nhu.
- Ông có nói đầu tư nước ngoài của
Việt Nam có thể bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng toàn cầu. Vậy
cụ thể những nguy cơ nào có thể xảy đến với thu hút cũng như
giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài?
- Hiện nay các nhà đầu tư vẫn cam kết
nhiều, vì họ vẫn tin tưởng vào tương lai và triển vọng đi
lên của nền kinh tế Việt Nam. Họ cho rằng tác động của cuộc
khủng hoảng tới nền kinh tế Việt Nam chỉ ở mức độ nhất định
và trong thời gian nhanh chóng có thể khắc phục được.
Khó khăn trước mắt có thể là giải ngân của
năm 2009. Đang có xu hướng một số công ty mẹ ở chính quốc
yêu cầu các công ty đầu tư sang ta phải giảm đầu tư để rút
vốn về, tháo gỡ khó khăn cho đại bản doanh của họ.
Les politiques consulaires ainsi que celles sur l'octroi
de visa aux citoyens vietnamiens seront maintenues par
le nouveau président Barack Obama, a déclaré Janice L.
Jacobs, nouvelle assistante du secrétaire d'État
américain chargée des affaires consulaires, lors de sa
visite le 10 février au Centre d'éducation américaine de
Hô Chi Minh-Ville.
Le nouveau gouvernement américain "continuera
d'appliquer des priorités aux étudiants vietnamiens dans
l'octroi d'un visa", a assuré Janice L. Jacobs, ajoutant
que pour l'heure, environ 15.000 Vietnamiens font des
études aux États-Unis. "Nous espérons qu'ils seront plus
nombreux à l'avenir", a-t-elle déclaré. Janice L. Jacobs
a souligné que la crise économique mondiale ainsi que le
chômage croissant aux États-Unis "n'influenceront pas sa
politique d'octroi de visa et ce même dans le secteur du
travail".
Selon le consulat général des États-Unis à Hô Chi
Minh-Ville, en 2008, ce pays a octroyé près de 10.000
visas à des étudiants vietnamiens, soit 50% de plus en
un an, classant le Vietnam dans la liste des 8 pays
ayant le plus grand nombre d'étudiants sur le sol
américain.
Le 10 février également, lors d'une rencontre avec le
vice-président du Comité populaire de Hô Chi Minh-Ville,
Nguyên Thành Tài, Janice L. Jacobs a déclaré qu'elle
s'intéressait particulièrement aux possibilités de
coopération bilatérale dans l'établissement de nouveaux
centres éducatifs en vue de faciliter les programmes de
coopération et les échanges éducatifs entre les 2 pays.
Les 2 parties ont apprécié les résultats de la
coopération dans d'autres domaines, notamment dans la
lutte contre le VIH/sida et plusieurs projets déployés à
Hô Chi Minh-Ville.
Cette visite de 4 jours, qui doit se terminer
aujourd'hui dans la mégapole du Sud, de Janice L. Jacobs
s'inscrit dans le cadre de sa première tournée en Asie
consacrée aux affaires consulaires. Ses rencontres avec
les responsables vietnamiens ont permis de discuter de
questions liées à l'établissement des organes de
représentation diplomatique, aux programmes d'adoption
d'enfants vietnamiens et d'autres procédures du ressort
du consulat.